滕王閣序 Đằng Vương Các Tự

Vương Bột – 王勃 (649 – 675)

Bài tự về gác Đằng Vương (Người dịch: Trần Trọng San)

Phiên âm và giải nghĩa, bản tiếng Việt của Trần Trọng San

南昌故郡,洪都新府。星分翼軫,地接衡廬。襟三江而帶五湖,控蠻荊而引甌越。 物華天寶,龍光射牛鬥之墟;人傑地靈,徐稚下陳蕃之榻 Nam Xương cố quận, Hồng Đô tân phủ. Tinh phân Dực Chẩn, địa tiếp Hành Lư. Khâm tam giang nhi đới ngũ hồ, khống Man Kinh nhi dẫn Âu Việt.Vật hoa thiên bảo, long quang xạ Ngưu Đẩu chi khư; Nhân kiệt địa linh, Từ Trĩ hạ Trần Phồn chi tháp.

(Đây là) quận cũ Nam Xương; phủ mới Hồng Đô.
Sao chia ngôi Dực, ngôi Chẩn; đất nối núi Hành, núi Lư.
Như cổ áo của ba sông, vòng đai của năm hồ; khuất phục đất Man Kinh, tiếp dẫn miền Âu Việt.
Vẻ rực rỡ của vật chính là đồ quý báu của trời; ánh sáng vằn rồng chiếu lên khu vực sao Đẩu sao Ngưu.
Bậc hào kiệt nơi người do khí linh tú của đất mà có; nhà cao sĩ Từ Trĩ hạ chiếc giường treo của Trần Phồn.

雄州霧列,俊采星馳, 臺隍枕夷夏之交,賓主盡東南之美。 都督閻公之雅望,綮戟遙臨;宇文新州之懿范,襜帷暫駐。 十旬休暇,勝友如雲; 千里逢迎,高朋滿座。 Hùng châu vụ liệt, tuấn thái tinh trì, Đài hoàng chẩm Di Hạ chi giao, tân chủ tận đông nam chi mỹ. Đô đốc Diêm công chi nhã vọng, khể kích dao lâm; Vũ Văn tân châu chi ý phạm, xiêm duy tạm trú. Thập tuần hưu hạ, thắng hữu như vân; Thiên lý phùng nghinh, cao bằng mãn toạ.

Chốn hùng châu như sương mù giải giăng; nguời anh tuấn như ngôi sao rong ruổi.
Đài, hào nằm gối lên giao giới vùng Di, Hạ; khách, chủ đều là những vẻ đẹp miền đông, nam.
Tiếng tăm tốt của đô đốc Diêm Bá Tự cùng với những khải kích đi đến miền xa.
Quan thái thú Vũ Văn Quân, là mô phạm của châu mới, tạm dừng xe tại chốn này.
Mười tuần nhàn rỗi, bạn tốt như mây.
Ngàn dặm đón chào, bạn hiền đầy chỗ.

騰蛟起鳳,孟學士之詞 宗;紫電青 霜,王將軍之武庫。
家君作宰,路出名區; 童子何知,躬逢勝餞。
Đằng giao khởi phụng, Mạnh học sĩ chi từ tông; Tử điện thanh sương, Vương tướng quân chi võ khố. Gia quân tác tể, lộ xuất danh khu;
Đồng tử hà tri, cung phùng thắng tiễn.

Giao long vượt cao, phụng hoàng nổi dậy, đó là tài hoa của Mạnh học sĩ, ông tổ của từ chương.
Tia chớp tía, hạt sương trong, đó là tiết tháo của Vương tướng quân, nhà cai quản võ khố.
Nhân gia quân làm quan tể tại Giao Châu, tôi đi thăm miền nổi tiếng đó.
Kẻ đồng tử này đâu biết có việc chi, hân hạnh gặp buổi tiệc linh đình.

時維九月,序屬 三秋。 潦水盡而寒潭清,煙光凝而暮山紫。
儼驂騑於上路,訪風景于崇阿。臨帝子之長洲,得仙人之舊館。
層臺聳翠,上出重霄; 飛閣流丹,下臨無地。
Thời duy cửu nguyệt, tự thuộc tam thu.
Lạo thuỷ tận nhi hàn đàm thanh, yên quang ngưng nhi mộ sơn tử.
Nghiễm tham phi ư thượng lộ, phỏng phong cảnh vu sùng a.
Lâm đế tử chi Trường Châu, đắc tiên nhân chi cựu quán.
Tằng đài tủng thuý, thượng xuất trùng tiêu;
Phi các lưu đan, hạ lâm vô địa.

Lúc này đương là tháng chín, thuộc về ba thu.
Nước rãnh cạn, đầm lạch trong; ánh khói đọng, núi chiều tia.
Trông ngựa xe trên đường cái; hỏi phong cảnh nơi gò cao.
Đến miền Trường Châu của đế tử; tìm được quán cũ của người tiên.
Núi non cao biếc, nhô khỏi lớp mây; bóng gác bay, màu son chày, dưới không sát đất.

鶴汀鳧渚,窮島嶼之縈回;桂殿蘭宮,列岡巒之體勢。
披繡闥,俯雕甍, 山原曠其盈視,川澤盱其駭矚。
Hạc đinh phù chử, cùng đảo tự chi oanh hồi;
Quế điện lan cung, liệt cương loan chi thể thế.
Phi tú thát, phủ điêu manh,
Sơn nguyên khoáng kỳ doanh thị, xuyên trạch hu kỳ hãi chúc.

Bến hạc, bãi phù quanh co đến tận đảo cồn; điện quế, cung lan bày ra cái thể thế của núi non.
Mở rộng cửa tô; cúi xem cột chạm.
Đồng núi trông rộng khắp; sông đầm nhìn hãi kinh.

閭 閻 撲 地,鍾 鳴 鼎食之家;舸艦迷津,青雀黃龍之軸。
虹銷雨霽,彩徹雲衢。 落霞與孤鶩齊飛,秋水共長天一色。
漁舟唱晚,響窮彭蠡之濱;雁陣驚寒,聲斷衡陽之浦。
Lư diêm phác địa, chung minh đỉnh thực chi gia; Khả hạm mê tân, thanh tước hoàng long chi trục.
Hồng tiêu vũ tễ, thái triệt vân cù.
Lạc hà dữ cô vụ tề phi, thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc.
Ngư chu xướng vãn, hưởng cùng Bành Lễ chi tân; Nhạn trận kinh hàn, thanh đoạn Hành Dương chi phố.

Cửa ngõ giăng mặt đất, đó là những nhà rung chuông, bày vạc.
Thuyền bè chật bến sông, trục vẽ chim sẻ xanh, rồng vàng.
Cầu vồng tan, cơn mưa tạnh; vẻ rực sáng, suốt đường mây.
Ráng chiều rơi xuống, cùng cái cò đơn chiếc đều bay; làn nước sông thu với bầu trời kéo dài một sắc.
Thuyền câu hát ban chiều, tiếng vang đến bến Bành Lễ.
Bầy nhạn kinh giá rét, tiếng kêu dứt bờ Hành Dương.


A: 中華人民共和国江西省南昌 倣古街滕王閣 (Trung Hoa nhân dân cộng hòa quốc Giang tây tỉnh Nam Xương Phường Cổ Nhai Đằng vương Các, 36号 Fanggu Street, Donghu, Nanchang, Jiangxi, China ĐT: +86 791 670 20360

遙襟俯暢,逸興遄飛。 爽籟發而清風生,纖歌凝而白雲遏。
淇園綠竹,氣淩彭澤之樽;鄴水朱華,光照臨川之筆。
四美具,二難并。 窮睇眄于中天,極娛遊於暇日。
Dao khâm phủ sướng, dật hứng thuyên phi.
Sảng lại phát nhi thanh phong sinh, tiêm ca ngưng nhi bạch vân át.
Kỳ Viên lục trúc, khí lăng Bành Trạch chi tôn;
Nghiệp thuỷ châu hoa, quang chiếu Lâm Xuyên chi bút.
Tứ mỹ cụ, nhị nan tinh.
Cùng thê miện vu trung thiên, cực ngu du ư hạ nhật.

Khúc ngâm xa xôi sảng khoái; hứng thú phiêu dật bay nhanh.
Tiếng vui phát sinh, gió mát nổi dậy; ca nhẹ lắng chìm, mây trắng lưu lại.
Tre lục vườn Kỳ, khí lan chén rượu Bành Trạch.
Sắc đỏ sông Nghiệp, ánh soi ngọn bút Lâm Xuyên.
Sẵn bốn điều hay; đủ hai bậc tốt.
Ngắm trông khắp cả khoảng trời; vui chơi hết ngày nhàn rỗi.

天高地迥,覺宇宙之無窮;興盡悲來,識盈虛之有數。
望長安于日下,指吳會於雲間。地勢極而南溟深,天柱高而北辰遠。
關山難越,誰悲失路之人? 萍水相逢,盡是他鄉之客。
懷帝閽而不見,奉宣室以何年?
Thiên cao địa huýnh, giác vũ trụ chi vô cùng;
Hứng tận bi lai, thức doanh hư chi hữu số.
Vọng Trường An vu nhật hạ, chỉ Ngô Hội ư vân gian.
Địa thế cực nhi nam minh thâm, thiên trụ cao nhi bắc thần viễn.
Quan san nan việt, thuỳ bi thất lộ chi nhân ?
Bình thuỷ tương phùng, tận thị tha hương chi khách.
Hoài đế hôn nhi bất kiến, phụng Tuyên thất dĩ hà niên ?

Trời cao, đất xa, biết vũ trụ rộng vô cùng.
Hứng hết, buồn về, hiểu đầy vơi là có số.
Trông Trường An dưới mặt trời; trỏ Ngô Hội trong khoảng mây.
Thế đất tận cùng, biển Nam sâu thẳm; cột trời cao ngất, sao Bắc xa xôi.
Quan san khó vượt, nào ai sót thương người lạc lối ?
Bèo nước gặp nhau, hết thảy đều là khách tha hương.
Tưởng nhớ chốn cửa vua, không trông thấy được; phụng chiếu nơi Tuyên Thất, chẳng biết năm nào.

嗟乎!
時運不濟,命途多舛。
馮唐易老,李廣難封。
Ta hồ!
Thời vận bất tế, mệnh đồ đa suyễn.
Phùng Đường dị lão, Lý Quảng nan phong.

Than ôi!
Thời vận chẳng bình thường; đường đời nhiều ngang trái.
Phùng Đường dễ thành già cả; Lý Quảng khó được phong hầu.

屈賈誼于長沙,非無聖主;
竄梁鴻于海曲,豈乏明時。
所賴君子安貧,達人知命。
老當益壯,寧知白首之心?
Khuất Giả Nghị vu Trường Sa, phi vô thánh chủ; Thoán Lương Hồng vu Hải Khúc, khởi phạp minh thời. Sở lại quân tử an bần, đạt nhân tri mệnh.
Lão đương ích tráng, ninh tri bạch thủ chi tâm ?

Giả Nghị bị khuất nơi Trường Sa, chẳng phải không vua hiền thánh.
Lương Hồng phái náu miền Hải Khúc, đâu có thiếu thời quang minh.
Nhờ được: người quân tử vui cảnh nghèo; bậc đạt nhân biết rõ mệnh.
Tuổi già càng phải mạnh hơn, nên hiểu lòng ông đầu bạc.

窮且益堅,不墜青雲之志。
酌貪泉而覺爽,處涸轍以猶歡。
北海雖賒,扶搖可接;
東隅已逝,桑榆非晚。
孟嘗高潔,空懷報國之心;
阮籍倡狂,豈效窮途之哭!
Cùng thả ích kiên, bất truỵ thanh vân chi chí.
Chước Tham tuyền nhi giác sảng, xử hạc triệt dĩ do hoan.
Bắc hải tuy xa, phù dao khả tiếp; Đông ngung dĩ thệ, tang du phi vãn.
Mạnh Thường cao khiết, không hoài báo quốc chi tâm; Nguyễn Tịch xướng cuồng, khởi hiệu cùng đồ chi khốc!

Lúc cùng hãy nên thêm vững, không rớt chí đường mây xanh.
Uống nước suối Tham, lòng vẫn sáng; ở nơi cùng khổ, bụng còn vui.
Biển bắc tuy xa xôi, nhưng cưỡi gió có thể đi tới.
Đã để trôi qua lúc mặt trời mọc ở phương đông, nhưng khi bóng lặn khóm tang du, phải đâu đã muộn.
Mạnh Thường thanh cao, vẫn mang tấm lòng báo quốc.
Nguyễn Tịch rồ dại, há bắt chước tiếng khóc đường cùng.

勃三尺微命,一介書生。
無路請纓,等終軍之弱冠;
有懷投筆,慕宗愨之長風。
Bột tam xích vi mệnh, nhất giới thư sinh.
Vô lộ thỉnh anh, đẳng Chung Quân chi nhược quán; Hữu hoài đầu bút, mộ Tông Xác chi trường phong.

Bột này là đứa nhỏ cao ba thước, một gã học trò.
Không có đường xin dải dây dài, như tuổi niên thiếu của Chung Quân.
Nhưng có hoài bão vứt cây bút, yêu mến cơn gió dài của Tông Xác.

舍簪笏於百齡,奉晨昏於萬里。
非謝家之寶樹,接孟氏之芳鄰。
他日趨庭,叨陪鯉對;
今晨捧袂,喜托龍門。
Xả trâm hốt ư bách linh, phụng thần hôn ư vạn lý.
Phi Tạ gia chi bảo thụ, tiếp Mạnh thị chi phương lân.
Tha nhật xu đình, thao bồi Lý đối;
Kim thần phủng duệ, hỉ thác Long môn.

Bỏ rơi trâm hốt ở trăm năm; theo việc thần hôn ngoài vạn dặm.
Tuy không phải là cây báu nhà họ Tạ; nhưng được ở gần hàng xóm tốt của họ Mạnh.
Ngày sau, tôi sẽ rảo bước trước sân, lạm phụ thêm lời đối đáp của ông Lý.
Sớm nay, nâng tay áo, vui mừng được gửi gắm họ tên tại cổng rồng.

楊意不逢,撫淩雲而自惜;
鍾期既遇,奏流水以何慚?
Dương Ý bất phùng, phủ Lăng vân nhi tự tích;
Chung Kỳ ký ngộ, tấu lưu thuỷ dĩ hà tàm?

Không còn được gặp Dương Ý, nên đọc thiên lăng vân
Nhưng đã gặp Chung Kỳ, thì tấu khúc lưu thuỷ có hổ thẹn gì.

嗚呼!
勝地不常,盛筵難再。
蘭亭已矣,梓澤丘墟。
Ô hô!
Thắng địa bất thường, thịnh diên nan tái.
Lan Đình dĩ hĩ, Tử Trạch khâu khư.

Than ôi!
Chốn danh thắng chẳng thường tồn tại; bữa tiệc lớn khó gặp hai lần.
Lan Đình còn đâu nữa, Tử Trạch thành gò hoang.

臨別贈言,幸承恩於偉餞;
登高作賦,是所望於群公。
敢竭鄙誠,恭疏短引。
Lâm biệt tặng ngôn, hạnh thừa ân ư vĩ tiễn;
Đăng cao tác phú, thị sở vọng ư quần công.
Cảm kiệt bỉ thành, cung sơ đoản dẫn.

Hân hạnh được thừa ân Diêm công trong bữa tiệc vĩ đại này, tôi viết lời tặng khi lâm biệt.
Còn như lên cao làm phú, đó là việc mong mỏi nơi các ông.
Xin dốc lòng thành quê kệch; cung kính làm bài tự ngắn.

一言均賦,四韻俱成。
請灑潘江,各傾陸海雲爾。
Nhất ngôn quân phú, tứ vận câu thành.
Thỉnh sái Phan giang, các khuynh lục hải vân nhĩ.

Trước ngỏ một lời, sau bày tình ý; đồng thời bốn vận đều xong.
Mời rảy nước sông Phan, cùng làm cho nghiêng mây trong đất liền lẫn mây ngoài biển vậy.

滕王高閣臨江渚,
佩玉鳴鸞罷歌舞。
畫棟朝飛南浦雲,
珠帘暮捲西山雨。
閒雲潭影日悠悠,
物換星移幾度秋。
閣中帝子今何在?
檻外長江空自流。
Đằng Vương cao các lâm giang chử,
Bội ngọc minh loan bãi ca vũ.
Hoạ đống triêu phi Nam Phố vân,
Châu liêm mộ quyển Tây Sơn vũ.
Nhàn vân đàm ảnh nhật du du,
Vật hoán tinh di kỷ độ thu.
Các trung đế tử kim hà tại ?
Hạm ngoại trường giang không tự lưu.

Bên sông, đây gác Đằng Vương.
Múa ca đã tắt, ngọc vàng nào ai ?
Cột rồng Nam Phố mây bay.
Rèm châu mưa cuốn ngàn Tây, sớm chiều.
In đầm, mây vẩn vơ trôi.
Tang thương vật đổi, sao dời mấy thâu.
Đằng vương trong gác giờ đâu ?
Trường Giang nước vẫn chảy mau mé ngoài.

南昌故郡,洪都新府。
星分翼軫,地接衡廬。
襟三江而帶五湖,控蠻荊而引甌越。
物華天寶,龍光射牛鬥之墟;
人傑地靈,徐稚下陳蕃之榻。
雄州霧列,俊采星馳,

臺隍枕夷夏之交,賓主盡東南之美。
都督閻公之雅望,綮戟遙臨;
宇文新州之懿范,襜帷暫駐。
十旬休暇,勝友如雲;
千里逢迎,高朋滿座。
騰蛟起鳳,孟學士之詞宗;
紫電青霜,王將軍之武庫。
家君作宰,路出名區;
童子何知,躬逢勝餞。

時維九月,序屬三秋。
潦水盡而寒潭清,煙光凝而暮山紫。
儼驂騑於上路,訪風景于崇阿。
臨帝子之長洲,得仙人之舊館。
層臺聳翠,上出重霄;
飛閣流丹,下臨無地。
鶴汀鳧渚,窮島嶼之縈回;
桂殿蘭宮,列岡巒之體勢。
披繡闥,俯雕甍,
山原曠其盈視,川澤盱其駭矚。
閭閻撲地,鍾鳴鼎食之家;
舸艦迷津,青雀黃龍之軸。
虹銷雨霽,彩徹雲衢。

落霞與孤鶩齊飛,秋水共長天一色。
漁舟唱晚,響窮彭蠡之濱;
雁陣驚寒,聲斷衡陽之浦。

遙襟俯暢,逸興遄飛。
爽籟發而清風生,纖歌凝而白雲遏。
淇園綠竹,氣淩彭澤之樽;
鄴水朱華,光照臨川之筆。
四美具,二難并。
窮睇眄于中天,極娛遊於暇日。
天高地迥,覺宇宙之無窮;
興盡悲來,識盈虛之有數。
望長安于日下,指吳會於雲間。
地勢極而南溟深,天柱高而北辰遠。
關山難越,誰悲失路之人?
萍水相逢,盡是他鄉之客。
懷帝閽而不見,奉宣室以何年?

嗟乎!
時運不濟,命途多舛。
馮唐易老,李廣難封。
屈賈誼于長沙,非無聖主;
竄梁鴻于海曲,豈乏明時。
所賴君子安貧,達人知命。
老當益壯,寧知白首之心?
窮且益堅,不墜青雲之志。
酌貪泉而覺爽,處涸轍以猶歡。
北海雖賒,扶搖可接;
東隅已逝,桑榆非晚。

孟嘗高潔,空懷報國之心;
阮籍倡狂,豈效窮途之哭!

勃三尺微命,一介書生。
無路請纓,等終軍之弱冠;
有懷投筆,慕宗愨之長風。
舍簪笏於百齡,奉晨昏於萬里。
非謝家之寶樹,接孟氏之芳鄰。
他日趨庭,叨陪鯉對;
今晨捧袂,喜托龍門。
楊意不逢,撫淩雲而自惜;
鍾期既遇,奏流水以何慚?

嗚呼!
勝地不常,盛筵難再。
蘭亭已矣,梓澤丘墟。
臨別贈言,幸承恩於偉餞;
登高作賦,是所望於群公。
敢竭鄙誠,恭疏短引。
一言均賦,四韻俱成。
請灑潘江,各傾陸海雲爾。

滕王高閣臨江渚,
佩玉鳴鸞罷歌舞。
畫棟朝飛南浦雲,
珠帘暮捲西山雨。
閒雲潭影日悠悠,
物換星移幾度秋。
閣中帝子今何在?
檻外長江空自流。

của Trần Trọng San

(Đây là) quận cũ Nam Xương; phủ mới Hồng Đô.
Sao chia ngôi Dực, ngôi Chẩn; đất nối núi Hành, núi Lư.
Như cổ áo của ba sông, vòng đai của năm hồ; khuất phục đất Man Kinh, tiếp dẫn miền Âu Việt.
Vẻ rực rỡ của vật chính là đồ quý báu của trời; ánh sáng vằn rồng chiếu lên khu vực sao Đẩu sao Ngưu.
Bậc hào kiệt nơi người do khí linh tú của đất mà có; nhà cao sĩ Từ Trĩ hạ chiếc giường treo của Trần Phồn.

Chốn hùng châu như sương mù giải giăng; nguời anh tuấn như ngôi sao rong ruổi.
Đài, hào nằm gối lên giao giới vùng Di, Hạ; khách, chủ đều là những vẻ đẹp miền đông, nam.
Tiếng tăm tốt của đô đốc Diêm Bá Tự cùng với những khải kích đi đến miền xa.
Quan thái thú Vũ Văn Quân, là mô phạm của châu mới, tạm dừng xe tại chốn này.
Mười tuần nhàn rỗi, bạn tốt như mây.
Ngàn dặm đón chào, bạn hiền đầy chỗ.

Giao long vượt cao, phụng hoàng nổi dậy, đó là tài hoa của Mạnh học sĩ, ông tổ của từ chương.
Tia chớp tía, hạt sương trong, đó là tiết tháo của Vương tướng quân, nhà cai quản võ khố.
Nhân gia quân làm quan tể tại Giao Châu, tôi đi thăm miền nổi tiếng đó.
Kẻ đồng tử này đâu biết có việc chi, hân hạnh gặp buổi tiệc linh đình.

Lúc này đương là tháng chín, thuộc về ba thu.
Nước rãnh cạn, đầm lạch trong; ánh khói đọng, núi chiều tia.
Trông ngựa xe trên đường cái; hỏi phong cảnh nơi gò cao.
Đến miền Trường Châu của đế tử; tìm được quán cũ của người tiên.
Núi non cao biếc, nhô khỏi lớp mây; bóng gác bay, màu son chày, dưới không sát đất.

Bến hạc, bãi phù quanh co đến tận đảo cồn; điện quế, cung lan bày ra cái thể thế của núi non.
Mở rộng cửa tô; cúi xem cột chạm.
Đồng núi trông rộng khắp; sông đầm nhìn hãi kinh.

Cửa ngõ giăng mặt đất, đó là những nhà rung chuông, bày vạc.
Thuyền bè chật bến sông, trục vẽ chim sẻ xanh, rồng vàng.
Cầu vồng tan, cơn mưa tạnh; vẻ rực sáng, suốt đường mây.
Ráng chiều rơi xuống, cùng cái cò đơn chiếc đều bay; làn nước sông thu với bầu trời kéo dài một sắc.
Thuyền câu hát ban chiều, tiếng vang đến bến Bành Lễ.
Bầy nhạn kinh giá rét, tiếng kêu dứt bờ Hành Dương.

Khúc ngâm xa xôi sảng khoái; hứng thú phiêu dật bay nhanh.
Tiếng vui phát sinh, gió mát nổi dậy; ca nhẹ lắng chìm, mây trắng lưu lại.
Tre lục vườn Kỳ, khí lan chén rượu Bành Trạch.
Sắc đỏ sông Nghiệp, ánh soi ngọn bút Lâm Xuyên.
Sẵn bốn điều hay; đủ hai bậc tốt.
Ngắm trông khắp cả khoảng trời; vui chơi hết ngày nhàn rỗi.

Trời cao, đất xa, biết vũ trụ rộng vô cùng.
Hứng hết, buồn về, hiểu đầy vơi là có số.
Trông Trường An dưới mặt trời; trỏ Ngô Hội trong khoảng mây.
Thế đất tận cùng, biển Nam sâu thẳm; cột trời cao ngất, sao Bắc xa xôi.
Quan san khó vượt, nào ai sót thương người lạc lối ?
Bèo nước gặp nhau, hết thảy đều là khách tha hương.
Tưởng nhớ chốn cửa vua, không trông thấy được; phụng chiếu nơi Tuyên Thất, chẳng biết năm nào.

Than ôi!
Thời vận chẳng bình thường; đường đời nhiều ngang trái.
Phùng Đường dễ thành già cả; Lý Quảng khó được phong hầu.

Giả Nghị bị khuất nơi Trường Sa, chẳng phải không vua hiền thánh.
Lương Hồng phái náu miền Hải Khúc, đâu có thiếu thời quang minh.
Nhờ được: người quân tử vui cảnh nghèo; bậc đạt nhân biết rõ mệnh.
Tuổi già càng phải mạnh hơn, nên hiểu lòng ông đầu bạc.

Lúc cùng hãy nên thêm vững, không rớt chí đường mây xanh.
Uống nước suối Tham, lòng vẫn sáng; ở nơi cùng khổ, bụng còn vui.
Biển bắc tuy xa xôi, nhưng cưỡi gió có thể đi tới.
Đã để trôi qua lúc mặt trời mọc ở phương đông, nhưng khi bóng lặn khóm tang du, phải đâu đã muộn.
Mạnh Thường thanh cao, vẫn mang tấm lòng báo quốc.
Nguyễn Tịch rồ dại, há bắt chước tiếng khóc đường cùng.

Bột này là đứa nhỏ cao ba thước, một gã học trò.
Không có đường xin dải dây dài, như tuổi niên thiếu của Chung Quân.
Nhưng có hoài bão vứt cây bút, yêu mến cơn gió dài của Tông Xác.

Bỏ rơi trâm hốt ở trăm năm; theo việc thần hôn ngoài vạn dặm.
Tuy không phải là cây báu nhà họ Tạ; nhưng được ở gần hàng xóm tốt của họ Mạnh.
Ngày sau, tôi sẽ rảo bước trước sân, lạm phụ thêm lời đối đáp của ông Lý.
Sớm nay, nâng tay áo, vui mừng được gửi gắm họ tên tại cổng rồng.

Không còn được gặp Dương Ý, nên đọc thiên lăng vân
Nhưng đã gặp Chung Kỳ, thì tấu khúc lưu thuỷ có hổ thẹn gì.

Than ôi!
Chốn danh thắng chẳng thường tồn tại; bữa tiệc lớn khó gặp hai lần.
Lan Đình còn đâu nữa, Tử Trạch thành gò hoang.

Hân hạnh được thừa ân Diêm công trong bữa tiệc vĩ đại này, tôi viết lời tặng khi lâm biệt.
Còn như lên cao làm phú, đó là việc mong mỏi nơi các ông.
Xin dốc lòng thành quê kệch; cung kính làm bài tự ngắn.

Trước ngỏ một lời, sau bày tình ý; đồng thời bốn vận đều xong.
Mời rảy nước sông Phan, cùng làm cho nghiêng mây trong đất liền lẫn mây ngoài biển vậy.

Bên sông, đây gác Đằng Vương.
Múa ca đã tắt, ngọc vàng nào ai ?
Cột rồng Nam Phố mây bay.
Rèm châu mưa cuốn ngàn Tây, sớm chiều.
In đầm, mây vẩn vơ trôi.
Tang thương vật đổi, sao dời mấy thâu.
Đằng vương trong gác giờ đâu ?
Trường Giang nước vẫn chảy mau mé ngoài.


Tượng Vương Bột ở phía dưới Đằng Vương Các.

Vương Bột tự Tử An, người đất Long Môn. Sáu tuổi đã biết làm văn. Mười sáu, mười bảy tuổi nổi danh hạ bút nên vần.

Vương có thói quen, mỗi khi làm văn, mài mực sửa soạn nghiên bút rồi nằm đắp chăn ngủ. Khi tỉnh dậy, cầm ngay bút viết. Vương nổi tiếng là một thi sĩ cao danh thời Sơ Đường (618-713).

Con của vua Cao Tông nhà Đường bấy giờ làm Thái Sử ở Hồng Châu, được phong là Đằng Vương, có dựng một cái gác bên sông Tầm Dương gọi là “Đằng Vương Các”. Lúc Diêm Bá Dư ra giữ chức Đô Đốc Hàng Châu, đặt tiệc tại gác Đằng Vương để thết tân khách. Muốn khoe tài chàng rể, bảo làm trước một bài tự, rồi mời tất cả các nhà quyền quý, các mặc khách tao nhân xa gần đến dự; và yêu cầu mỗi người làm một bài tự ngay bữa tiệc.

Vương Bột lúc bấy giờ, tuổi vừa 15, 16. Hay tin ấy, nhưng vì đường xá xa xôi có mấy trăm dặm, không đến họp được, lấy làm tiếc. Một ông già khuyên chàng cứ sửa soạn thuyền buồm, tự nhiên sẽ có gió thổi. Quả nhiên đêm đó có gió lớn. Vương cho thuyền khởi hành, và hôm sau tới Đằng Vương các vừa kịp lúc vào tiệc.

Thấy Vương Bột, viên Đô Đốc họ Diêm khinh là con nít, miễn cưỡng cấp giấy bút. Nhưng cho người đứng bên cạnh Vương, hễ Vương viết được câu nào thì chép lại cho ông xem.

Mới đọc hàng đầu, họ Diêm đã ngạc nhiên vì lời già giặn. Đến câu:

Lạc hà dữ cô vụ tề phi,
Thu thủy cộng tràng thiên nhất sắc

Nghĩa:

Ráng chiều với cò lẻ cùng bay,
Nước thu cùng trời dài một sắc

thì ông vô cùng khâm phục.

Bài của họ Vương đặc sắc hơn tất cả. Từ đó, danh càng vang dậy khắp nơi.

Bài phú “Đằng Vương các” viết theo thể biền ngẫu, dùng nhiều chữ cầu kỳ, nhiều điển khó hiểu nhưng lời thì cực đẹp nên rất khó dịch. Trong bài, Vương Bột nhắc qua địa lý và nhân vật ở quận, nơi xây gác Đằng Vương, rồi tả chủ khách trong tiệc, phong cảnh chung quanh khi ngồi trong gác trông ra, sau cùng kể cảm tưởng của chính mình.

Cuối bài thơ, có 8 câu tuyệt diệu, nhất là 4 câu cuối:

Nhàn vân đàm ảnh nhật du du,
Vật hoán tinh di, không độ thu?
Các trung đế tử kim hà tại?
Hạm ngoại trường giang không tự lưu.

Nghĩa:

Đầm chiếu mây bay, trời lửng lơ,
Sao dời vật đổi, mấy thu rồi.
Con vua trong gác nào đâu nhỉ?
Dòng nước ngoài hiên vẫn tự trôi.

Nhưng người có tài như thế mà mạng yểu. Nhân khi đi thăm cha làm quan ở Giao Chỉ, Vương bị đắm thuyền, chết ở giữa biển giữa 29 xuân xanh.

Tương truyền rằng hai câu thơ:

Lạc hà dữ cô vụ tề phi,
Thu thủy cộng tràng thiên nhất sắc.

tuyệt diệu như thế mà có người cho Vương Bột còn dốt, nhưng không chỉ dốt chỗ nào. Vì thế khi chết, hồn còn uất ức nên trong đêm khuya thanh vắng thường hiện hình trên bãi bể, níu áo những văn nhân sĩ tử qua đường, miệng ngâm nga hai câu thơ trên và hỏi dốt chỗ nào, xin chỉ giúp. Nhưng ai nấy đều khen hay. Hồn Vương không bằng lòng, cho rằng sĩ tử kia còn dốt, thi khoa này không thể đậu. Quả thật như thế.

Rồi, cũng từ đó, giọng ngâm hai câu thơ kia vẫn còn văng vẳng bi ai theo hình bóng họ Vương thơ thẩn, dật dờ trên bãi biển.

Nhưng một hôm có một văn nhân đi ngang qua đấy, hồn Vương hiện hình níu lại hỏi, thì chàng văn nhân ấy cười bảo:

– Hai câu thơ ấy không phải sai nhưng nhà ngươi còn dốt thật. Đã bao năm có tiếng là tứ kiệt Sơ Đường mà không nhận biết được cái dốt của mình trong hai câu thơ ấy ư?

Nói xong dứt áo ra đi. Vương tha thiết yêu cầu giải thích. Khách không phụ lòng, nên bảo:

– Hai câu thơ thừa chữ “dữ” và chữ “cộng”. Nếu bỏ hai chữ thì thật tuyệt, vừa gọn vừa thanh thoát, lại nhất khí:

Lạc hà cô vụ tề phi,
Thu thủy tràng thiên nhất sắc.

Vương Bột nhận ra, quả còn dốt thật, mới bái tạ lãnh lời chỉ giáo.

Từ đó, trong đêm khuya thanh vắng, trên bãi biển không còn hình bóng của nhà thơ tài danh trẻ tuổi hiện ra nữa. Và giọng ngâm hai câu thơ bất hủ bi ai, não ruột kia cũng chìm mất trong không gian cao rộng, mịt mờ. Đây là một câu chuyện hoang đường.

Do câu chuyện gió đưa thuyền Vương Bột đến Đằng Vương các làm cho Vương nổi tiếng tài danh, nên cổ thi có câu:

Thời lai, phong tống Đằng Vương các

Thời tới thì gió đưa đến Đằng Vương

để chỉ sự may mắn của kẻ gặp thời. Những từ ngữ: “duyên Đằng”, “gió đưa Đằng các” đều có ý nghĩa như thế. Trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du có câu:

Duyên Đằng thuận nẻo gió đưa

là do điển tích trên.

Dựa vào ý thơ của Vương Bột, có người đưa ra hai câu:

Nước thu biêng biếc một mầu trời
Cánh cò cô độc dáng chơi vơi

http://caodaism.org/CaoDaiTuDien/c/c1-002.htm

Theo truyện Vương Bột đời Ðường, sau khi làm bài hịch ca tụng đá gà (Ðấu kê hịch) cho hai vị Vương tử Bái Vương Hiền và Chu Vương Hiển, Vương Bột bị Ðường Cao Tông quở trách tại sao không cản ngăn việc đá gà mà còn làm bài hịch ca tụng đá gà, nên vua giận, đuổi Vương Bột đi khỏi kinh thành.


Vương Bột buồn bã, mướn thuyền đi thăm thân phụ đang làm Thứ Sử Giao Châu. Vì sóng to gió lớn nên thuyền phải dừng lại, đậu tại chơn núi Mã Ðương. Ðêm ấy trời quang đãng, trăng thu vằng vặc, Vương Bột lên bờ ngắm xem cảnh vật, bỗng thấy một cụ già râu tóc bạc phơ đang ngồi trên một tảng đá, vẫy Bột đến mà nói rằng:

Cậu sao không đến Ðằng Vương Các? Sáng ngày mai là Tết Trùng Dương, ở Ðằng Vương Các có tiệc lớn, nếu cậu đến dự, chỉ cần làm một bài văn cũng đủ để tên tuổi với đời hơn là làm Ðấu kê hịch mà bị phạt.

Vương Bột thưa rằng:

– Từ đây đến Ðằng Vương Các ở Hàng Châu có đến sáu bảy trăm dặm đường, há một tối mà đến đó được sao?

Cụ già liền đáp:

– Cả thủy phủ của vùng Trung nguyên nầy đều do ta cai quản. Nếu cậu quyết chí, ta giúp cậu một cơn gió đưa thuyền đi đến Hàng Châu ngay tối nay.

Vương Bột liền chấp tay tạ ơn. Bỗng chẳng thấy Cụ già đâu nữa, Bột biết là chàng may mắn được Thần Tiên giúp đỡ, nên liền trở về thuyền, ra lệnh tức khắc nhổ neo, căng buồm đi Hàng Châu ngay. Gió mát đẩy buồm, thuyền đi nhanh như tên bắn, chẳng bao lâu thì tới Hàng Châu, tất cả phu thuyền đều hết sức kinh ngạc. Bột rất lấy làm đắc ý.

Lúc nầy Vũ Văn Quân vừa thôi giữ chức Châu Mục Giang Châu, nhân biết Ðô Ðốc Diêm Bá Tự có người con rể là Ngô Tử Chương, một bậc thiếu niên anh tuấn, vốn đã làm sẵn văn bài, mong để phô trương, nên Vũ Văn Quân tổ chức một Hội thơ văn tại Ðằng Vương Các, mời những người có văn tài đến dự để Ngô Tử Chương trổ tài làm hài lòng quan Ðô Ðốc.

Vương Bột trước đây có quen biết Vũ Văn Quân, nên Bột liền đến viếng, được Quân mời dự tiệc tại Ðằng Vương Các.

Sau khi cùng các thiếu niên khác vái chào, Bột liền ngồi xuống ghế. Vì Bột nhỏ tuổi nhất, mới 14 tuổi, nên phải ngồi ở cuối bàn tiệc. Ðàn sáo rộn ràng, rượu được vài tuần thì Vũ Văn Quân lên tiếng nói rằng:

– Nhớ xưa Ðằng Vương Lý Nguyên Anh đánh Ðông dẹp Bắc, gây dựng công nghiệp vẻ vang một đời, sau làm Thứ Sử vùng nầy, dưới chăn dân, trên kính kẻ sĩ, trăm họ chưa quên đức tốt, nên mới xây gác Ðằng Vương để làm dấu tích lưu niệm. Nhưng chỉ tiếc danh thắng bậc nầy mà chưa có người hiền tài làm một bài văn hay, tạc vào bia đá, cho cảnh thêm toàn bích. Nay nhân bữa tiệc hội tụ các anh tài, xin hãy trổ hết anh hoa, ghi lại chuyện nầy, liệu có nên chăng?

Vũ Văn Quân nói rồi liền sai kẻ tả hữu đem văn phòng tứ bảo đến cho mỗi người. Ai nấy đều ngầm hiểu là việc nầy sắp sẵn cho Ngô Tử Chương trổ tài, nên dùng lời lẽ khác nhau mà từ tạ. Riêng Vương Bột, vì mới đến nên không biết và cũng nổi tánh khí anh hùng, cũng muốn thi thố tài năng, liền nhận lãnh giấy mực, mọi người thấy vậy đều ái náy giùm cho.

Diêm Bá Tự trong lòng thầm nghĩ: Nực cười thay cho kẻ thiếu niên chẳng thấu lẽ đời! Hãy xem hắn thi thố ra sao? Liền ra lịnh cho một viên lại đến đứng cạnh Vương Bột, xem Bột viết được câu nào thì báo vào trong.

Vương Bột trải tờ giấy lên mặt bàn, cầm bút viết ngay:

Quận cũ Nam Xương, phủ mới Hồng Ðô,
Giữa khoảng hai sao Dực, Chẩn,
Tiếp giáp hai sông Hành, Lư,
Do Tam giang mà nối với Ngũ Hồ,
Mở Di Kinh mà dẫn về Âu Việt.
. . . . . . . . . . . . . . . . . .
Chiếc cò bay với rán xa,
Sông thu cùng với Trời xa một màu.

Diêm Bá Tự nghe xong, hết sức kinh ngạc, khen rằng:

– Thằng bé nầy hay lạ! Thật là Thiên tài! Mau đem chén lớn ra đây, rót thêm hứng cho văn thi nào.

Lát sau, bài văn của Vương Bột viết xong, tả hữu đọc to lên cho mọi người nghe, ai nấy đều khen ngợi.

Bỗng Ngô Tử Chương đứng lên nói:

– Bài văn nầy đâu phải xuất phát từ đại tài của Vương huynh, mà lại là sự giả mạo, nếu không tin thì Tử Chương xin đọc lại, một chữ cũng không sai.

Mọi người hết sức kinh ngạc. Tử Chương liền đọc một mạch từ đầu đến cuối bài văn của Vương Bột không sót chữ nào. Ðọc xong, Tử Chương nói:

– Vậy xin các Ngài xét cho.

Ai nấy đều sợ hãi, không biết xử trí ra sao.

Bỗng Vương Bột lên tiếng nói:

-Ngô huynh có trí nhớ thật phi thường, đọc qua là nhớ liền, không sót một chữ. Nhưng sau bài văn, tiểu đệ còn một bài thơ nữa, không rõ Ngô huynh có đọc được không?

Ngô Tử Chương không biết trả lời làm sao, đành xấu hổ ngồi xuống. Vương Bột liền viết một mạch xong bài thơ:

Gác Ðằng cao ngất bãi sông thu,
Ngọc múa vàng reo nay thấy đâu?
Nam phố mây mai quanh nóc vẽ,
Tây sơn mưa tối cuốn rèm châu.
Mây vờn nước cuốn bao năm lụn,
Vật đổi sao dời mấy lúc sầu.
Ðằng Các nay nhìn lòng chạnh nhớ,
Non sông ngoài cửa chẳng thay màu.

Diêm Bá Tự và Vũ Văn Quân xem xong đều hết lời ca ngợi từng câu từng chữ của bài văn, liền tặng thưởng ngay cho Vương Bột 500 tấm lụa.

Tài danh của Vương Bột từ đó càng ngày càng nổi. Về sau, Vương Bột cưới được vợ giàu, và được vua gọi trở về ban cho tước lộc vinh hiển.

Ðời sau, Tô Ðông Pha đọc lại chuyện nầy, cảm tác viết ra câu thơ: “Thời lai phong tống Ðằng Vương Các.”, nghĩa là: Thời vận đến thì gió đưa tới gác Ðằng Vương.

http://vi.wikipedia.org/wiki/Dang_Vuong_Cac

Đằng Vương các (tiếng Trung: 滕王阁) là tên gọi của ba nhà lầu có gác do Đằng Vương Lý Nguyên Anh thời nhà Đường cho xây dựng tại các tỉnh Giang Tây, Tứ Xuyên và Sơn Đông. Trong số này, nổi tiếng nhất là Đằng Vương các ở Giang Tây, do nó gắn liền với bài thơ Đằng Vương các tự của Vương Bột. Trong phạm vi bài này chỉ đề cập tới Đằng Vương các tại Giang Tây.

Đằng Vương các ở Nam Xương, tỉnh Giang Tây là một trong ba đại danh lầu của vùng Giang Nam, cùng với Nhạc Dương lâu ở Hồ Nam, Hoàng Hạc lâu ở Hồ Bắc.

Đằng Vương các nằm ở phía tây bắc Nam Xương, bờ đông sông Cám Giang. Được Lý Nguyên Anh (con trai của Đường Cao Tổ Lý Uyên, em của Đường Thái Tông Lý Thế Dân) cho xây dựng vào năm Vĩnh Huy thứ 4 (năm 653) thời nhà Đường. Năm 652 Lý Nguyên Anh được điều đến Tô Châu để nhậm chức thứ sử, ông sai đô đốc Hồng Châu xây dựng các này để làm chỗ ở. Do Lý Nguyên Anh được phong là “Đằng Vương”, nên các này gọi là Đằng Vương các. Khoảng 20 năm sau, đô đốc Hồng Châu khi đó là Diêm Công cho trùng tu. Sau khi hoàn thành công việc, ông cho mời các văn sĩ đến sáng tác thơ văn để ghi nhớ, Vương Bột đã sáng tác bài Đằng Vương các tự và nó đã trở thành một trong những bài thơ nổi tiếng trong thơ ca Trung Hoa thời kỳ nhà Đường.

Sau này, qua các thời kỳ Tống, Nguyên, Minh, Thanh thì Đằng Vương các cũng lần lượt trải qua nhiều thời kỳ thịnh suy, trước sau tổng cộng 28 lần trùng tu, các công trình kiến trúc đã bị thay đổi nhiều. Lần trùng tu cuối cùng diễn ra vào khoảng niên hiệu Đồng Trị (1862-1875) nhà Thanh. Giai đoạn 1926-1929, Đằng Vương các bị phá hủy do chiến tranh. 50 năm sau, nó lại được trùng tu một lần nữa.

http://vi.wikibooks.org/wiki/Dang_Vuong_Cac_Tu

Viết lại, có phiên âm và giải nghĩa, bản tiếng Việt của Trần Trọng San

南昌故郡,洪都新府。星分翼軫,地接衡廬。襟三江而帶五湖,控蠻荊而引甌越。 物華天寶,龍光射牛鬥之墟;人傑地靈,徐稚下陳蕃之榻 Nam Xương cố quận, Hồng Đô tân phủ. Tinh phân Dực Chẩn, địa tiếp Hành Lư. Khâm tam giang nhi đới ngũ hồ, khống Man Kinh nhi dẫn Âu Việt.Vật hoa thiên bảo, long quang xạ Ngưu Đẩu chi khư; Nhân kiệt địa linh, Từ Trĩ hạ Trần Phồn chi tháp.

(Đây là) quận cũ Nam Xương; phủ mới Hồng Đô.
Sao chia ngôi Dực, ngôi Chẩn; đất nối núi Hành, núi Lư.
Như cổ áo của ba sông, vòng đai của năm hồ; khuất phục đất Man Kinh, tiếp dẫn miền Âu Việt.
Vẻ rực rỡ của vật chính là đồ quý báu của trời; ánh sáng vằn rồng chiếu lên khu vực sao Đẩu sao Ngưu.
Bậc hào kiệt nơi người do khí linh tú của đất mà có; nhà cao sĩ Từ Trĩ hạ chiếc giường treo của Trần Phồn.

雄州霧列,俊采星馳, 臺隍枕夷夏之交,賓主盡東南之美。 都督閻公之雅望,綮戟遙臨;宇文新州之懿范,襜帷暫駐。 十旬休暇,勝友如雲; 千里逢迎,高朋滿座。 Hùng châu vụ liệt, tuấn thái tinh trì, Đài hoàng chẩm Di Hạ chi giao, tân chủ tận đông nam chi mỹ. Đô đốc Diêm công chi nhã vọng, khể kích dao lâm; Vũ Văn tân châu chi ý phạm, xiêm duy tạm trú. Thập tuần hưu hạ, thắng hữu như vân; Thiên lý phùng nghinh, cao bằng mãn toạ.

Chốn hùng châu như sương mù giải giăng; nguời anh tuấn như ngôi sao rong ruổi.
Đài, hào nằm gối lên giao giới vùng Di, Hạ; khách, chủ đều là những vẻ đẹp miền đông, nam.
Tiếng tăm tốt của đô đốc Diêm Bá Tự cùng với những khải kích đi đến miền xa.
Quan thái thú Vũ Văn Quân, là mô phạm của châu mới, tạm dừng xe tại chốn này.
Mười tuần nhàn rỗi, bạn tốt như mây.
Ngàn dặm đón chào, bạn hiền đầy chỗ.

騰蛟起鳳,孟學士之詞 宗;紫電青 霜,王將軍之武庫。
家君作宰,路出名區; 童子何知,躬逢勝餞。
Đằng giao khởi phụng, Mạnh học sĩ chi từ tông; Tử điện thanh sương, Vương tướng quân chi võ khố. Gia quân tác tể, lộ xuất danh khu;
Đồng tử hà tri, cung phùng thắng tiễn.

Giao long vượt cao, phụng hoàng nổi dậy, đó là tài hoa của Mạnh học sĩ, ông tổ của từ chương.
Tia chớp tía, hạt sương trong, đó là tiết tháo của Vương tướng quân, nhà cai quản võ khố.
Nhân gia quân làm quan tể tại Giao Châu, tôi đi thăm miền nổi tiếng đó.
Kẻ đồng tử này đâu biết có việc chi, hân hạnh gặp buổi tiệc linh đình.

時維九月,序屬 三秋。 潦水盡而寒潭清,煙光凝而暮山紫。
儼驂騑於上路,訪風景于崇阿。臨帝子之長洲,得仙人之舊館。
層臺聳翠,上出重霄; 飛閣流丹,下臨無地。
Thời duy cửu nguyệt, tự thuộc tam thu.
Lạo thuỷ tận nhi hàn đàm thanh, yên quang ngưng nhi mộ sơn tử.
Nghiễm tham phi ư thượng lộ, phỏng phong cảnh vu sùng a.
Lâm đế tử chi Trường Châu, đắc tiên nhân chi cựu quán.
Tằng đài tủng thuý, thượng xuất trùng tiêu;
Phi các lưu đan, hạ lâm vô địa.

Lúc này đương là tháng chín, thuộc về ba thu.
Nước rãnh cạn, đầm lạch trong; ánh khói đọng, núi chiều tia.
Trông ngựa xe trên đường cái; hỏi phong cảnh nơi gò cao.
Đến miền Trường Châu của đế tử; tìm được quán cũ của người tiên.
Núi non cao biếc, nhô khỏi lớp mây; bóng gác bay, màu son chày, dưới không sát đất.

鶴汀鳧渚,窮島嶼之縈回;桂殿蘭宮,列岡巒之體勢。
披繡闥,俯雕甍, 山原曠其盈視,川澤盱其駭矚。
Hạc đinh phù chử, cùng đảo tự chi oanh hồi;
Quế điện lan cung, liệt cương loan chi thể thế.
Phi tú thát, phủ điêu manh,
Sơn nguyên khoáng kỳ doanh thị, xuyên trạch hu kỳ hãi chúc.

Bến hạc, bãi phù quanh co đến tận đảo cồn; điện quế, cung lan bày ra cái thể thế của núi non.
Mở rộng cửa tô; cúi xem cột chạm.
Đồng núi trông rộng khắp; sông đầm nhìn hãi kinh.

閭 閻 撲 地,鍾 鳴 鼎食之家;舸艦迷津,青雀黃龍之軸。
虹銷雨霽,彩徹雲衢。 落霞與孤鶩齊飛,秋水共長天一色。
漁舟唱晚,響窮彭蠡之濱;雁陣驚寒,聲斷衡陽之浦。
Lư diêm phác địa, chung minh đỉnh thực chi gia; Khả hạm mê tân, thanh tước hoàng long chi trục.
Hồng tiêu vũ tễ, thái triệt vân cù.
Lạc hà dữ cô vụ tề phi, thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc.
Ngư chu xướng vãn, hưởng cùng Bành Lễ chi tân; Nhạn trận kinh hàn, thanh đoạn Hành Dương chi phố.

Cửa ngõ giăng mặt đất, đó là những nhà rung chuông, bày vạc.
Thuyền bè chật bến sông, trục vẽ chim sẻ xanh, rồng vàng.
Cầu vồng tan, cơn mưa tạnh; vẻ rực sáng, suốt đường mây.
Ráng chiều rơi xuống, cùng cái cò đơn chiếc đều bay; làn nước sông thu với bầu trời kéo dài một sắc.
Thuyền câu hát ban chiều, tiếng vang đến bến Bành Lễ.
Bầy nhạn kinh giá rét, tiếng kêu dứt bờ Hành Dương.


A: 中華人民共和国江西省南昌 倣古街滕王閣 (Trung Hoa nhân dân cộng hòa quốc Giang tây tỉnh Nam Xương Phường Cổ Nhai Đằng vương Các, 36号 Fanggu Street, Donghu, Nanchang, Jiangxi, China ĐT: +86 791 670 20360

遙襟俯暢,逸興遄飛。 爽籟發而清風生,纖歌凝而白雲遏。
淇園綠竹,氣淩彭澤之樽;鄴水朱華,光照臨川之筆。
四美具,二難并。 窮睇眄于中天,極娛遊於暇日。
Dao khâm phủ sướng, dật hứng thuyên phi.
Sảng lại phát nhi thanh phong sinh, tiêm ca ngưng nhi bạch vân át.
Kỳ Viên lục trúc, khí lăng Bành Trạch chi tôn;
Nghiệp thuỷ châu hoa, quang chiếu Lâm Xuyên chi bút.
Tứ mỹ cụ, nhị nan tinh.
Cùng thê miện vu trung thiên, cực ngu du ư hạ nhật.

Khúc ngâm xa xôi sảng khoái; hứng thú phiêu dật bay nhanh.
Tiếng vui phát sinh, gió mát nổi dậy; ca nhẹ lắng chìm, mây trắng lưu lại.
Tre lục vườn Kỳ, khí lan chén rượu Bành Trạch.
Sắc đỏ sông Nghiệp, ánh soi ngọn bút Lâm Xuyên.
Sẵn bốn điều hay; đủ hai bậc tốt.
Ngắm trông khắp cả khoảng trời; vui chơi hết ngày nhàn rỗi.

天高地迥,覺宇宙之無窮;興盡悲來,識盈虛之有數。
望長安于日下,指吳會於雲間。地勢極而南溟深,天柱高而北辰遠。
關山難越,誰悲失路之人? 萍水相逢,盡是他鄉之客。
懷帝閽而不見,奉宣室以何年?
Thiên cao địa huýnh, giác vũ trụ chi vô cùng;
Hứng tận bi lai, thức doanh hư chi hữu số.
Vọng Trường An vu nhật hạ, chỉ Ngô Hội ư vân gian.
Địa thế cực nhi nam minh thâm, thiên trụ cao nhi bắc thần viễn.
Quan san nan việt, thuỳ bi thất lộ chi nhân ?
Bình thuỷ tương phùng, tận thị tha hương chi khách.
Hoài đế hôn nhi bất kiến, phụng Tuyên thất dĩ hà niên ?

Trời cao, đất xa, biết vũ trụ rộng vô cùng.
Hứng hết, buồn về, hiểu đầy vơi là có số.
Trông Trường An dưới mặt trời; trỏ Ngô Hội trong khoảng mây.
Thế đất tận cùng, biển Nam sâu thẳm; cột trời cao ngất, sao Bắc xa xôi.
Quan san khó vượt, nào ai sót thương người lạc lối ?
Bèo nước gặp nhau, hết thảy đều là khách tha hương.
Tưởng nhớ chốn cửa vua, không trông thấy được; phụng chiếu nơi Tuyên Thất, chẳng biết năm nào.

嗟乎!
時運不濟,命途多舛。
馮唐易老,李廣難封。
Ta hồ!
Thời vận bất tế, mệnh đồ đa suyễn.
Phùng Đường dị lão, Lý Quảng nan phong.

Than ôi!
Thời vận chẳng bình thường; đường đời nhiều ngang trái.
Phùng Đường dễ thành già cả; Lý Quảng khó được phong hầu.

屈賈誼于長沙,非無聖主;
竄梁鴻于海曲,豈乏明時。
所賴君子安貧,達人知命。
老當益壯,寧知白首之心?
Khuất Giả Nghị vu Trường Sa, phi vô thánh chủ; Thoán Lương Hồng vu Hải Khúc, khởi phạp minh thời. Sở lại quân tử an bần, đạt nhân tri mệnh.
Lão đương ích tráng, ninh tri bạch thủ chi tâm ?

Giả Nghị bị khuất nơi Trường Sa, chẳng phải không vua hiền thánh.
Lương Hồng phái náu miền Hải Khúc, đâu có thiếu thời quang minh.
Nhờ được: người quân tử vui cảnh nghèo; bậc đạt nhân biết rõ mệnh.
Tuổi già càng phải mạnh hơn, nên hiểu lòng ông đầu bạc.

窮且益堅,不墜青雲之志。
酌貪泉而覺爽,處涸轍以猶歡。
北海雖賒,扶搖可接;
東隅已逝,桑榆非晚。
孟嘗高潔,空懷報國之心;
阮籍倡狂,豈效窮途之哭!
Cùng thả ích kiên, bất truỵ thanh vân chi chí.
Chước Tham tuyền nhi giác sảng, xử hạc triệt dĩ do hoan.
Bắc hải tuy xa, phù dao khả tiếp; Đông ngung dĩ thệ, tang du phi vãn.
Mạnh Thường cao khiết, không hoài báo quốc chi tâm; Nguyễn Tịch xướng cuồng, khởi hiệu cùng đồ chi khốc!

Lúc cùng hãy nên thêm vững, không rớt chí đường mây xanh.
Uống nước suối Tham, lòng vẫn sáng; ở nơi cùng khổ, bụng còn vui.
Biển bắc tuy xa xôi, nhưng cưỡi gió có thể đi tới.
Đã để trôi qua lúc mặt trời mọc ở phương đông, nhưng khi bóng lặn khóm tang du, phải đâu đã muộn.
Mạnh Thường thanh cao, vẫn mang tấm lòng báo quốc.
Nguyễn Tịch rồ dại, há bắt chước tiếng khóc đường cùng.

勃三尺微命,一介書生。
無路請纓,等終軍之弱冠;
有懷投筆,慕宗愨之長風。
Bột tam xích vi mệnh, nhất giới thư sinh.
Vô lộ thỉnh anh, đẳng Chung Quân chi nhược quán; Hữu hoài đầu bút, mộ Tông Xác chi trường phong.

Bột này là đứa nhỏ cao ba thước, một gã học trò.
Không có đường xin dải dây dài, như tuổi niên thiếu của Chung Quân.
Nhưng có hoài bão vứt cây bút, yêu mến cơn gió dài của Tông Xác.

舍簪笏於百齡,奉晨昏於萬里。
非謝家之寶樹,接孟氏之芳鄰。
他日趨庭,叨陪鯉對;
今晨捧袂,喜托龍門。
Xả trâm hốt ư bách linh, phụng thần hôn ư vạn lý.
Phi Tạ gia chi bảo thụ, tiếp Mạnh thị chi phương lân.
Tha nhật xu đình, thao bồi Lý đối;
Kim thần phủng duệ, hỉ thác Long môn.

Bỏ rơi trâm hốt ở trăm năm; theo việc thần hôn ngoài vạn dặm.
Tuy không phải là cây báu nhà họ Tạ; nhưng được ở gần hàng xóm tốt của họ Mạnh.
Ngày sau, tôi sẽ rảo bước trước sân, lạm phụ thêm lời đối đáp của ông Lý.
Sớm nay, nâng tay áo, vui mừng được gửi gắm họ tên tại cổng rồng.

楊意不逢,撫淩雲而自惜;
鍾期既遇,奏流水以何慚?
Dương Ý bất phùng, phủ Lăng vân nhi tự tích;
Chung Kỳ ký ngộ, tấu lưu thuỷ dĩ hà tàm?

Không còn được gặp Dương Ý, nên đọc thiên lăng vân
Nhưng đã gặp Chung Kỳ, thì tấu khúc lưu thuỷ có hổ thẹn gì.

嗚呼!
勝地不常,盛筵難再。
蘭亭已矣,梓澤丘墟。
Ô hô!
Thắng địa bất thường, thịnh diên nan tái.
Lan Đình dĩ hĩ, Tử Trạch khâu khư.

Than ôi!
Chốn danh thắng chẳng thường tồn tại; bữa tiệc lớn khó gặp hai lần.
Lan Đình còn đâu nữa, Tử Trạch thành gò hoang.

臨別贈言,幸承恩於偉餞;
登高作賦,是所望於群公。
敢竭鄙誠,恭疏短引。
Lâm biệt tặng ngôn, hạnh thừa ân ư vĩ tiễn;
Đăng cao tác phú, thị sở vọng ư quần công.
Cảm kiệt bỉ thành, cung sơ đoản dẫn.

Hân hạnh được thừa ân Diêm công trong bữa tiệc vĩ đại này, tôi viết lời tặng khi lâm biệt.
Còn như lên cao làm phú, đó là việc mong mỏi nơi các ông.
Xin dốc lòng thành quê kệch; cung kính làm bài tự ngắn.

一言均賦,四韻俱成。
請灑潘江,各傾陸海雲爾。
Nhất ngôn quân phú, tứ vận câu thành.
Thỉnh sái Phan giang, các khuynh lục hải vân nhĩ.

Trước ngỏ một lời, sau bày tình ý; đồng thời bốn vận đều xong.
Mời rảy nước sông Phan, cùng làm cho nghiêng mây trong đất liền lẫn mây ngoài biển vậy.

滕王高閣臨江渚,
佩玉鳴鸞罷歌舞。
畫棟朝飛南浦雲,
珠帘暮捲西山雨。
閒雲潭影日悠悠,
物換星移幾度秋。
閣中帝子今何在?
檻外長江空自流。
Đằng Vương cao các lâm giang chử,
Bội ngọc minh loan bãi ca vũ.
Hoạ đống triêu phi Nam Phố vân,
Châu liêm mộ quyển Tây Sơn vũ.
Nhàn vân đàm ảnh nhật du du,
Vật hoán tinh di kỷ độ thu.
Các trung đế tử kim hà tại ?
Hạm ngoại trường giang không tự lưu.

Bên sông, đây gác Đằng Vương.
Múa ca đã tắt, ngọc vàng nào ai ?
Cột rồng Nam Phố mây bay.
Rèm châu mưa cuốn ngàn Tây, sớm chiều.
In đầm, mây vẩn vơ trôi.
Tang thương vật đổi, sao dời mấy thâu.
Đằng vương trong gác giờ đâu ?
Trường Giang nước vẫn chảy mau mé ngoài.

Con vua Đường Cao Tổ là Nguyên Anh được phong là Đằng Vương, xây cất gác này khi nhận chức thứ sử tại Hồng Châu. Năm Hàm Thuần thứ hai, thứ sử Hồng Châu là Diêm Bá Tự mở đại yến ở đây, sai con rể là Ngô Tử Chương chuẩn bị trước một bài tự để mang ra khoe với tân khách. Trong bữa tiệc, họ Diêm sai đem giấy bút ra mời khách làm văn, nhưng không ai dám nhận. Duy có Vương Bột không từ chối. Họ Diêm sai người ngó bài của Vương Bột. Khi được nghe đến câu “Lạc hà dữ cô vụ tề phi” thì thán phục, khen là thiên tài, bèn thỉnh cầu Vương Bột tiếp tục hoàn thành bài tự.

Nam Xương cố quận: Nay là phủ Nam Xương, tỉnh Giang Tây.

Hồng Đô tân phủ: Tức Nam Xương. Vì nhà Tuỳ đặt Hồng Châu tại đây, nên có tên này.

Tinh phân Dực Chẩn: Hai ngôi sao thuộc địa phận nước Sở. Đất Sở và Nam Xương xa cách nhau, nên dùng các tiếng này để nói sự xa xôi.

địa tiếp Hành Lư: Tên hai ngọn núi. Hành Sơn ở phía tây nam, Lư Sơn ở phía bắc Nam Xương.

Tam giang: Ba con sông: Kinh Giang, Tùng Giang, Chiết Giang.

Ngũ hồ: Năm hồ: Thái Hồ, Phan Dương Hồ, Thanh Thảo Hồ, Đan Dương Hồ, Động Đình Hồ.

Man Kinh: Vì đất Kinh Sở thuộc về khu vực nam man, nên gọi là Man Kinh.

Long quang: Tại Tào thành, có hai thanh kiếm tên là Can Tương và Mạc Gia. Đây nói ánh sáng của vằn con rồng khắc trên hai thanh kiếm đó.

Từ Trĩ, Trần Phồn: Từ Trĩ người đất Dự Châu, đời Hán, là bậc cao sĩ đất Hồng Châu. Trần Phồn là thái thú đất Dự Chương. Trần Phồn có cái giường chỉ dành riêng tiếp đón Từ Trĩ, khi Từ Trĩ đi lại treo giường lên.

Hùng châu: Một quận lớn.

Đài hoàng, Di Hạ: Tức đất Kinh Sở và miền Trung Hạ.

Đông nam chi mỹ: Do thành ngữ “Đông kim, nam tiễn chi mỹ”: vẻ đẹp của vàng phương đông, tên miền bắc.

Khể kích: Còn gọi là khải kích, cái kích có bọc lụa đỏ hay đen. Thời xưa khi các quan xuất hành, thường có các khải kích đi đằng trước.

Vũ Văn: Tức Vũ Văn Quân, vừa nhậm chức mục tại Phong Châu, nhân đi qua đây, có dự tiệc tại Đằng Vương các.

Đằng giao: Ví với tài hoa của người.

Khởi phụng: Ví với tiết tháo của người.
Mạnh học sĩ: Tức Mạnh Tuyền, một vị khách hữu danh trong bữa tiệc.
Vương tướng quân: Không biết rõ tên.

Cửa ngõ giăng mặt đất, đó là những nhà rung chuông, bày vạc: Thời xưa, những nhà giàu sang thường bày đỉnh mà ăn và đánh chuông trong bữa ăn.

Thuyền bè chật bến sông, trục vẽ chim sẻ xanh, rồng vàng: Tức là phố Phàn Dương.

Bầy nhạn kinh giá rét, tiếng kêu dứt bờ Hành Dương: Phía nam núi Hành Sơn, có ngọn tên là Hồi Nhạn Phong, những con chim nhạn không bay qua nổi ngọn núi này.

Tre lục vườn Kỳ, khí lan chén rượu Bành Trạch: Tên đất thuộc tỉnh Hồ Bắc. Miền này có loại trúc đẹp, ví với cái đức của người quân tử. Khi làm quan lệnh tại huyện Bành Trạch, Đào Tiềm thường bày tiệc rượu đãi khách.

Sắc đỏ sông Nghiệp, ánh soi ngọn bút Lâm Xuyên: Nghiệp thuỷ là nơi khởi nghiệp của họ Tào. Thơ Tào Thực có câu “Châu hoa mạo lục trì” (sắc đỏ phủ lên ao màu lục). Vương Hy Chi đời Tấn có tài viết chữ, từng làm chức nội sử tại Lâm Xuyên.

Sẵn bốn điều hay: Tức là lương thần, mỹ cảnh, thưởng tâm, lạc sự (trời tốt, cảnh đẹp, lòng mừng, việc vui). đủ hai bậc tốt: Chỉ chủ và khách đều là người tốt.

Trông Trường An dưới mặt trời; trỏ Ngô Hội trong khoảng mây: Tức là thành huyện Ngô, tỉnh Giang Tô.

Thế đất tận cùng, biển Nam sâu thẳm; cột trời cao ngất, sao Bắc xa xôi: Theo Thần dị kinh, ở núi Côn Luân có cột đồng rất cao, nên gọi là cột trời.

Tưởng nhớ chốn cửa vua, không trông thấy được; phụng chiếu nơi Tuyên Thất, chẳng biết năm nào: Tức là chính điện của cung Vị Ương đời Hán, nơi Giả Nghị phụng chiếu trả lời về vấn đề nguồn gốc quỷ thần.

Phùng Đường dị lão: Người đất An Lâm, làm chức xa kỵ đô uý đời Hán Văn Đế.

Lý Quảng nan phong: Là một danh tướng đời Hán Võ Đế, nhưng không được phong hầu.

Khuất Giả Nghị vu Trường Sa: Người đời Hán Văn Đế, bị dèm pha, phái trích ra làm thái phó tại Trường Sa.

Thoán Lương Hồng vu Hải Khúc: Người đời Nguỵ, lấy làm hổ thẹn vì phải tôn thờ những người quyền quý, nên trốn sang ẩn náu tại miền Hải Khúc thuộc nước Đông Ngô.

Chước Tham tuyền nhi giác sảng: Cách Quảng Châu hai chục dặm, có một cái suối tên là Tham tuyền (suối tham). Các cố lão nói rằng nếu uống nước suối đó thì người liêm cũng thành ra tham. Đời Tấn, Ngô Ẩn làm thứ sử Quảng Châu, có thơ như sau: “Cổ nhân ngôn thử thuỷ, Nhất sáp hoài thiên kim. Thí sử Di Tề ẩm, Chung dương bất tịch tâm” (Người đời xưa nói rằng dòng nước này, uống một lần thì nghĩ đến ngàn vàng, giả sử các ông Bá Di, Thúc Tề có uống, rốt cuộc cũng không thay đổi lòng).

涸轍 hạc triệt: dấu bánh xe khô cạn, ví với cảnh khốn cùng.

Biển bắc tuy xa xôi, nhưng cưỡi gió có thể đi tới: Làn gió mạnh thổi từ dưới lên trên.

Mạnh Thường cao khiết: Mạnh Thường tự là Bá Chu. Đời Hán Thuận Đế, làm chức thái thú tại Hợp Phố, tính tình rất cao khiết.

Nguyễn Tịch: Người đời Tấn, phóng đãng, thích uống rượu.

Chung Quân chi nhược quán: Năm 22 tuổi, Chung Quân xin vua Hán ban cho dải dây dài để đi trói Nam Việt Vương đem về.

Tông Xác chi trường phong: Người thời Nam Bắc triều, tự là Nguyên Cán. Lúc nhỏ người chú hỏi chí của Xác, Xác trả lời rằng “Nguyện thừa trường phong phá vạn lý lãng” (Muốn cưỡi cơn gió dài đẻ phá làn sóng muôn dặm).

Xả trâm hốt ư bách linh: Trâm và hốt là đồ dùng của các quan.

Phi Tạ gia chi bảo thụ: Tạ Nguyên được chú là An quý trọng. Nguyên nói rằng: “Ví như những cây ngọ chi lan, nên để cho mọc tại bậc thềm sàn”. Người đời sau dùng câu này để nói về các con em tốt.

Tiếp Mạnh thị chi phương lân: Bà Mạnh mẫu ba lần dời nhà để chọn hàng xóm tốt cho con là Mạnh Tử.

Thao bồi Lý đối: Sách Luận ngữ chép rằng: “Ông Lý (Ba Ngư) khi đi qua sân, có trả lời đức Khổng Tử về việc học Kinh thi, Kinh lễ”. Ông Lý là con của Khổng Tử.

Kim thần phủng duệ, hỉ thác Long môn: Lý Ưng là một bậc cao sĩ đời Hán. Những người được Lý Ưng tiếp, cho là được hân hạnh đến cổng rồng.

Dương Ý bất phùng: Tức Dương Đắc Ý, người tiến cử Tư mã Tương Như lên vua Hán Võ Đế.

Lưu thuỷ: Tên bài phú do Tư mã Tương Như làm ra.

Chung Kỳ ký ngộ: Người nước Sở, thời Xuân Thu, giỏi thẩm định tiếng đàn.
Bá Nha gảy đàn, để chí vào dòng nước chảy. Chung Kỳ nói rằng: “Tiếng đàn dâng cao như nước sông”.

Lan Đình: Đình này ở phía tây nam huyện Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang, là nơi Vương Hy Chi đời Tấn thường hội họp bạn bè.

http://www.vuhuu.edu.vn/Form/thu_vien/Ebook/dien_tich_kieu/bai58.htm

Thiếp Lan đình” tức là bản “Lan đình tập tụ” của Vương Hy Chi.

Nguyên đời nhà Tấn (265- 419) có quan Thái uý tên Khước Giám, muốn chọn một người rể hiền, mới cho người đến trường của Vương Ðạo, xem trong đám học sinh có người xứng đáng không.

Lúc người nhà trở về, Khước Giám hỏi thì người ấy đáp:
— Học sinh giỏi thì đông, người nào nghe việc kén rể cũng sửa soạn y phục bảnh bao, ganh đua ra dáng nề nếp. Chỉ có một người không để ý đến, trật áo, tréo chân nằm ở giường phía Ðông.

Khước Giám bảo:
— Người ấy mới thực đáng rể ta.

Thế là ông chọn chàng nầy làm rể. Ðó là Vương Hy Chi, sau làm quan đến chức Hữu quân, nổi danh tiếng về viết chữ đẹp nhất.

“Nằm ở giữa phía Ðông” tức “Ðông sàng” chỉ người rể quý (rể Ðông sàng). Trong tác phẩm “Nhị độ mai” có câu: “Có Tây tử đó thiếu Ðông sàng nào?”

Vương Hy Chi tự Dật Thiếu, vì làm quan đến chức Hữu quân nên thường gọi là Vương Hữu quân. Tương truyền, Vương tập viết chữ bên bờ ao, đến nỗi nước ao đen ngòm những mực.

Lối chữ “Khải” của Vương được người đời cho là tốt đẹp nhứt từ xưa đến nay; và hết mực tán tụng bút thiếp của Vương là “lướt như mây bay, mạnh như rồng lộn”. Trong các bản bút thiếp của Vương để lại có bản “Lan đình tập tự” viết ngày 3 tháng 3 năm Vĩnh Hoà thứ chín (337) đời nhà Tấn được hậu thế quý trọng cho làm mẫu mực để tập theo. Những bản “Lan đình tập tự” có lưu hành, nhưng có lẽ là những bản phỏng theo. Bản chính đã thất lạc từ đời nhà Ðường (618- 907).

Ngày nay, trong các lối chữ Hán có lối chữ “Lan đình” tức là lối chữ phỏng theo chữ viết của Vương Hy Chi trong “Lan đình tập tự”.

“So vào với thiếp Lan đình nào thua”, mặc dầu giận chồng và ghen tuông hết mực đoạ đày Kiều nhưng thấy chữ viết của Kiều, Hoạn Thư phải khen là tốt đẹp ngang chữ của Vương Hy Chi ngày xưa. Hoạn Thư quả là hạng đàn bà thuộc vào hàng trí thức, đã từng khen Kiều khi xem tờ thâm cung của Kiều trực tiếp đưa:

… Rằng: “Tài nên trọng mà tình nên thương!
Ví chăng có số giàu sang
Giá này dẫu đúc nhà vàng cũng nên
(câu 1900 đến 1902)

Và, khi thấy chữ chép kinh của Kiều:

Tiếc thay lưu lạc giang hồ
Nghìn vàng thật cũng nên mua lấy tài
(câu 1989 và 1990)

khiến người đọc nhớ đến câu khi quan Phủ xử Kiều, thấy bài thơ “Mộc già” (cái gông cây) của Kiều bị quan buộc làm và được đánh giá:

Tài này sắc ấy nghìn vàng chưa cân

Biết thưởng thức tài của người tức là người có tài. Trọng tài thương tình nên đúc nhà vàng cho ở, và đem nghìn vàng ra mua lấy tài này…. Hoạn Thư đâu phải là hạng đàn bà thô bỉ, cục súc. Chỉ tại Thúc Sinh quá ngây ngô, không nghe lời khuyên đoan chính, khéo léo của Kiều nên mới gây nên tai vạ cho Kiều, và cũng gây cho Hoạn Thư có hành động ác độc để mang phải tiếng đời là người đàn bà ghen tuông sâu hiểm.

Tử Trạch: Tức là vườn Kim Cốc, nơi có quán rượu Thạch Sùng đời Tấn.

Tên đất, ở phía tây nam huyện Nam Xương, tỉnh Giang Tây.
Tên núi, còn có tên là Nam Xương Sơn, thuộc tỉnh Giang Tây.

Nguồn:
Hán văn-Trần Trọng San

http://www.nhanmonquan.net/vbulletin/archive/index.php/t-2510.html

  • (1) Con vua Cao Tổ nhà Ðường là Nguyên Anh ra làm Hồng Châu thứ sử, phong tước Ðằng Vương, dựng một cái gác bên sông Trường Giang (tỉnh Giang Tây), gọi là Ðằng Vương Các.
  • (2) (3) Tức quận Dự Chương đời Hán; thời đó còn gọi là Nam Xương, qua Tùy, Ðường mới gọi là Hồng Châu; nay là huyện Nam Xương tỉnh Giang Tây.
  • (4) Người Trung Hoa thời xưa cho rằng mỗi miền ở trong xứ họ và các nước láng giềng thuộc về một vài ngôi sao. Miền nước Sở, phương Nam, thuộc về hai sao Dực, Chẩn.
  • (5) Hành Sơn ở phía tây nam Hồng Châu; Lư Sơn ở phía bắc Hồng Châu.
  • (6) Tam Giang là Kinh Giang, Tùng Giang, Chiết Giang; Ngũ hồ là Thái hồ, Phan Dương hồ, Thanh Thảo hồ, Ðan Dương hồ, Ðộng Ðình hồ. Ý nói sông hồ bao bọc Hồng Châu, uốn lượn như vạt áo, dây lưng.
  • (7) Ðất Kinh Sở tức Hồ Nam, Hồ Bắc. – Ðất Ðông Âu tức Lưỡng Quảng.
  • (8) Theo thuyết cổ, đất Hồng Châu (Nam Xương) ứng vào phận sao Ðẩu. Ðời Tây Hán, khoảng sao Ngưu sao Ðẩu thường thấy ánh sáng chiếu ra; sao Lôi Hoán làm quan đất ấy, đào được hai thanh kiếm, một chiếc là Can tướng, một chiếc là Mạc da, ánh sáng trên chỗ chạm trổ hình rồng của nó (long quang) chiếu thẳng lên hai sao Ngưu, Ðẩu; từ đấy ánh sáng hai ngôi sao này mất đi.
  • (9) Ðời Hán, Từ Trĩ là cao sĩ đất Nam Xương, quan thái thú đất ấy là Trần Phồn, đặt riêng một cái giường để đãi Từ Trĩ; Từ Trĩ tới thì mới hạ giường xuống để tiếp; Từ Trĩ đi thì treo giường lên.
  • (10) Di, trỏ các đất mọi rợ; Hạ, tức Hoa Hạ, trỏ miền Trung châu văn minh ở lưu vực hai con sông Dương Tử và Hoàng Hà.
  • (11) Lúc đó Diêm Bá Dư là đô đốc Hồng Châu. Nhã Vọng là được người trọng vọng là cao nhã. – Khải kích cũng đọc là khể kích là cái kích bọc lụa hay sơn đỏ; bậc vương công hồi xưa đi đâu có lính cầm khải kích đi trước cho oai. – Vũ Văn Quân mới được bổ chức mục bá ở Phong Châu, đi qua nơi đó, ghé dự tiệc nên gọi là tạm chú.
  • (12) Mười ngày là một tuần, theo tục cổ, quan lại cuối mỗi tuần được nghỉ một ngày.
  • (13) Mạnh học sĩ là một kháck quí trong tiệc, giỏi về văn chương. Con giao là con thuồng luồng. – Tử điện và Thanh sương là tên hai thanh bảo kiếm. (Theo sách Cổ Kim Chú và sách Tây Kinh tạp kí) – Vương tướng quân cũng là một khách quí trong tiệc.
  • (14) Cha của Vương Bột tên là Phúc, làm quan ở Giao Chỉ, lúc đó Bột mới mười chín tuổi, nhân đi thăm cha mà ghé dự tiệc.
  • (15) Lạo thủy có sách giải thích là nước mưa đọng ở bên đường.
  • (16) Con vua đây tức Ðằng Vương, Ðằng Vương các cất trên một bãi dài; quán cũ của tiên tức Ðằng Vương các.
  • (17) Nguyên văn: phi các: các bay, ý nói gác cao đâm thẳng lên trời; gác lại cất ngay bên bờ sông, như không dựng trên đất, lại càng có vẻ như bay lên không trung; gác đỏ chiếu xuống nước, như màu đỏ trôi trên nước.
  • (18) Bãi hạc là bãi có hạc tụ tập, bến le là bến có le đậu. Ðiện quế, cung lan trỏ đền thờ thần sông, điện làm bằng gỗ quế, cung làm bằng gỗ lan.
  • (19) Cửa gấm là cửa chạm trổ và sơn, coi như gấm.
  • (20) Ðời xưa, nhà giàu sang gõ chuông để báo tới bữa cơm; thức ăn đựng trong cái đỉnh.Loạn bến (nguyên văn: mê tân): ý nói rất nhiều thuyền.
  • (21) Bến Bành Lãi ở hồ Phan Dương, một trong ngũ hồ. Hành Dương ở phía nam Hành Sơn, có ngọn núi là Hồi Nhạn phong, cao lắm, nhạn bay tới đó, không qua được phải quay về.
  • (22) Chúng tôi theo bản trong Cổ Văn Quan Chỉ, giữ chữ Tuy viên, cũng gọi là Tuy uyển (vườn Tuy), một vườn mà Lương Hiếu Vương đời Hán xây cất. Cụ Nguyễn Ðôn Phục theo các bản khác, giữ chữ Kỳ viên, và giải thích câu: “Kỳ viên lục trúc” là: “Trúc ở sông (?) Kỳ, ý nói cái đức tốt của vua Vũ Công nước Vệ”.
    Ông huyện Bành Trạch tức Ðào Tiềm.
    Lâm Xuyên nội sử tức là chức của Vương Hi Chi.
    Nghiệp thủy là nơi Tào Tháo nổi lên.Câu này ví các khách trong tiệc với những nhân vật danh tiếng, tài đức thời trước.
  • (23) Bốn cái hay là: cảnh đẹp, thời tiết tốt, lòng vui ngắm cảnh và việc vui. – Hai cái khó là chủ hiền khách quí.
  • (24) Tràng An là kinh đô đời Ðường, nay ở Thiểm Tây – Ngô Hội nay ở Giang Tô.
  • (25) Theo thuyết cổ: Nam Hải là ao của Trời, Bắc cực là cột của Trời.
  • (26) Nguyên văn: tuyên thất là chính điện ở trước một cái cung đời Hán. Giả Nghị phụng chiếu ở đó. Câu này ý nói rằng mình cũng muốn được vua dùng như Giả Nghị, nhưng không biết bao giờ mới được.
  • (27) Phùng Ðường là người đời Hán, có tài mà tới già cũng chỉ làm một chức nhỏ, sau Hán Văn Ðế gặp ông mới nhận ra tài mà cho làm chức Xa Kị đô úy. Lý Quảng cũng là một tướng tài đời Hán mà không được phong hầu.
  • (28) Lương Hồng là hiền sĩ đời Ðông Hán, trọng tiết nghĩa, không chịu quị lụy kẻ quyền quý, trốn ở bờ biển Ðông Ngô.
    Ý nói: những thời đó có minh quân mà vẫn có những bậc hiền tài bị bỏ sót; vậy thì bây giờ mình (và khách trong tiệc) nếu chưa được trọng dụng cũng không nên buồn.
  • (29) Chí thanh vân: chí cao thượng, trong sạch.
  • (30) Ðời Tấn, Ngô Ẩn Chi làm thứ sử Quảng Châu, tới Thạch môn, thấy một cái suối gọi là Tham tuyền (suối tham), múc lên uống, rồi làm bài thơ rằng: “Cổ nhân ngôn thử thủy, Nhất ẩm hoài thiên kim; Thí sử Di, Tề ẩm, Chung đương bất dịch tâm”, nghĩa là: Cổ nhân nói nước này, một lần uống vào thì hóa tham, chỉ mơ ước có được ngàn vàng. Nhưng giá cho Bá Di, Thúc Tề (những ẩn sĩ thời cổ) uống, thì rốt cuộc lòng các vị đó cũng không đổi (nghĩa là không hoá tham). Nguyên văn: hạt triệt là vũng cạn chỗ vết bánh xe. Nghĩa bóng: cảnh cùng khốn.
  • (31) Nguyên văn: phù dao, chữ trong Trang Tử là ngọn gió mạnh từ dưới bốc lên; đông ngung là góc phía đông, nơi mặt trời mọc; tang du là cây dâu, cây du; khi mặt trời lặn rồi, ánh sáng chỉ còn lưu lại trên ngọn cây dâu, cây du; cho nên tang du chỉ phương tây. Câu này do câu: “Thất chi đông ngung, thu chi tang du” trong Hậu Hán Thư, nghĩa bóng là lúc sớm không được lợi thì lúc chiều sẽ được lợi, cũng không phải trễ.
  • (32) Mạnh Thường là một quan thái thú cao khiết đời Hán Thuận Ðế. – Nguyễn Tịch là một cuồng sĩ đời Tấn, phóng đãng, thích rượu, đi xe vào núi, gặp đường cùng thì than khóc trở ra.
  • (33) Chung Quân nhà Hán hai mươi tuổi, phụng sứ đi thuyết vua Triệu Nam Việt, xin vua một sợi dây dài để cột cổ vua Nam Việt mà điệu về triều. Ngày nay “xin dây” (thỉnh anh) có nghĩa là đầu quân báo quốc.
  • (34) Ban Siêu đời Hán làm thư kí cho người, bất mãn, ném bút mà đầu quân, chí muốn lập cộng để được phong hầu, sau được phong là Ðịnh viễn hầu.Tôn Sác, người đời Nam Bắc Triều, hồi nhỏ có chí lớn, thưa với chú: “Xin đợi gió lớn, phá đợt sóng vạn dặm”; sau được phong Thao Dương hầu.
  • (35) Ý nói bỏ ý muốn làm quan để phụng dưỡng cha. Thần hôn, do thành ngữ thần tỉnh hôn định: buổi sáng thăm cha mẹ xem giấc ngủ hồi hôm có an không, buổi tối hầu hạ cho đến lúc cha mẹ an nghỉ. – Nơi xa vạn dặm trỏ đất Giao Chỉ.
  • (36) Tạ Huyền đời Tấn là người tài giỏi, chú là Tạ An mến lắm, thường bảo: “Ví như chi lan ngọc thụ (cây ngọc), phải để cho mọc ở chỗ sân thềm”, không nỡ để chịu cảnh mưa nắng.Mẹ Mạnh Tử chọn láng giềng mà ở, cho con tập được tánh tốt mà nên người.
  • (38) Khổng Lý là con Khổng Tử, hầu cha ở sân, học Thi, Lễ. Ý nói sẽ tới Giao Chỉ thăm cha và nghe lời gia huấn.
  • (39) Tư Mã Tương Như làm bài phú Lăng Vân, Dương Ðắc Ý (tác giả gọi tắt là Dương Ý) là tri kỉ, được Dương tiến cử lên vua Hán, Chung Kì tức Chung Tử Kì, người nước Sở đời Xuân Thu; Bá Nha giỏi đàn, gẩy đàn cầm, Chung Tử Kì nghe tiếng đàn mà biết rằng chí của Bá Nha ở dòng nước chảy. Ý nói mình đã gặp người tri âm (trỏ Diêm Công) như Bá Nha gặp Chung Tử Kì, thì không còn gì phải thẹn nữa.
  • (40) Tử Trạch là tên một tòa nhà Thạch Sùng đời Tấn xây cất ở Kim Cốc để thết đãi tân khách.
  • (41) Cảm kiệt bỉ thành, cung sơ đoản dẫn: Lời nói nhũn vì nhỏ tuổi, ngồi ở hàng cuối, lại cả gan làm bài tựa, nên mong sự rộng lượng của các ông khách kia.
  • (42) Bội ngọc, Minh loan (ngọc đeo, con chim loan bằng vàng ngậm nhạc) là những đồ trang sức trên áo các con hát.
  • (43) Ý nói: Buổi chiếu cuối rèm như cuốn mưa ở núi Tây Sơn.

Ghi chú: Chú thích chép từ Cổ Văn Trung Quốc

Điển tích Truyện Kiều:

Duyên đằng thuận nẻo gió đưa

Vợ của Thúc Sinh là Hoạn Thư (tức cô họ Hoạn hoặc tiểu thư họ Hoạn) vốn dòng danh giá, con của một quan Thượng thư bộ Lại. Ðoạn giới thiệu Hoạn Thư, “Truyện Kiều”có câu:

Vốn dòng họ Hoạn danh gia
Con quan Lại bộ tên là Hoạn Thư
Duyên Ðằng thuận nẻo gió đưa
Cùng chàng kết tóc xe tơ những ngày
Ở ăn thì nết cũng hay
Nói điều ràng buộc thì tay cũng già
(câu 1529 đến 1534)

“Duyên Ðằng” có nghĩa là duyên may mắn, do câu thơ cổ: “Thời lai phong tống Ðằng Vương các“, nghĩa là lúc thời vận đến thì gió đưa đến gác Ðằng Vương.

Ðời nhà Ðường, Vương Bột tự Tử An, người đất Long Môn, sáu tuổi đã biết làm văn; lên mười lăm mười sáu, nổi danh hạ bút nên vần. Vương có thói quen, mỗi khi làm văn, mài mực sửa soạn nghiên bút rồi nằm đắp chăn ngủ. Khi thức dậy, cầm ngay lấy bút viết một loạt. Vương nổi tiếng là một nhà thơ cao danh thời Sơ Ðường (618- 712).

Con của vua Can Tông nhà Ðường bấy giờ làm Thứ sử Hồng đô, được phong là Ðằng Vương, có dựng một cái lầu (gác) bên sông Tầm Dương gọi là “Ðằng Vương các“. Khi Diêm Bá Dư ra giữ chức Ðô đốc Hàng Châu, bày tiệc ở gác Ðằng Vương để thết đãi tân khách. Muốn khoe tài thêm danh chàng rể, họ Diêm bảo làm trước một bài thơ rồi mời tất cả nhà quyền quý, các mặc khách tao nhân gần xa đến dự, và yêu cầu mỗi người làm cho một bài tại ngay bữa tiệc.

Vương Bột lúc bấy giờ tuổi khoảng mười lăm mười sáu. Hay được tin ấy, nhưng vì đường xá xa xôi có hàng mấy trăm dặm, không đến được, lấy làm tiếc. Có một cụ già khuyên chàng cứ sửa soạn thuyền buồm, tự nhiên sẽ có gió thổi. Quả nhiên, đêm đó có gió lớn, Vương cho thuyền khởi hành; và hôm sau tới Ðằng Vương các vừa kịp lúc vào tiệc. Có tích chép: Vương Bột đi thuyền thăm cha làm Thứ sử ở Giao Châu, nửa đường bị một trận gió thổi lạc đến Ðằng Vương các, được dự tiệc và làm thơ.

Thấy Vương Bột, viên Ðô đốc họ Diêm khinh là trẻ con, miễn cưỡng cấp giấy bút. Nhưng cho người đứng bên cạnh Vương, hễ Vương viết được câu nào thì lén chép lại cho ông xem.

Mới đọc hàng đầu, họ Diêm đã ngạc nhiên vì lời già dặn. Ðến câu:

Lạc hà dữ cô vụ tề phi
Thu thuỷ cộng tràng thiên nhất sắc

Tạm dịch:

Ráng chiều với cò lẻ cùng bay
Nước thu cùng trời dài một sắc

thì Ðô đốc họ Diêm vô cùng khâm phục.

Bài phú “Ðằng Vương các” viết theo thể biền ngẫu, dùng nhiều chữ cầu kỳ, nhiều điển khó hiểu nhưng lời thì cực đẹp nên rất khó dịch. Hình như từ trước đến nay chưa ai dịch ra quốc văn. Trong bài, Vương Bột nhắc qua địa lý và nhân vật Quận Hồng đô, nơi xây gác Ðằng Vương rồi tả chủ khách trong tiệc, phong cảnh chung quanh khi ngồi trong gác trông ra; sau cùng kể cảm tưởng của chính mình.

Tả cảnh thu thì có câu:

Lạo thuỷ tận nhi hàn đàm thanh
Yên quang ngưng nhi mộ sư tử
(Nước lụt đã cạn mà đầm lạnh trong veo

ánh khói ngưng kết mà núi chiều sắc tía)

Cảnh trời nước thì:

Lạc hà dữ cô vụ tề phi
Thu thuỷ cộng tràng thiên nhất sắc
(Ráng chiều với cò lẻ cùng bay

Nước thu cùng trời dài một sắc)

Cảnh vật, nhà cửa, ghe thuyền thì:

Lư diêm phác địa chung minh đỉnh thực chi gia
Kha hạm mê tân thanh trước hoàng long chi trục
(Xóm làng đầy đất nhà nào cũng vào hàng chung đỉnh

Ghe thuyền chật bến đều vẽ tước xanh rồng vàng)

Tác giả nhìn cảnh sinh tình:

Thiên cao địa quýnh giác vũ trụ chỉ vô cùng
Hứng tận bi lai thức doanh hư chi hữu số
(Trời cao đất xa thấy vũ trụ là vô cùng

Vui hết buồn lại biết đầy vơi là có số)

Rồi cảm khoái triền miên:

Quan san nan việt thuỳ bi thất lộ chi nhân
Bình thuỷ tương phùng tận thị tha hương chi khách
……..
Quân tử an bần đạt nhân tri mạng
Lão đương ích tráng ninh tri bạch thủ chi tâm
Cùng thả ích kiên bất truỵ thanh vân chi chi
(Quan san khó vượt ai thương người lỡ bước

Bèo nước gặp nhau đều là khách tha hương
……..
Quân tử an phận nghèo hiểu rõ số mạng
Già càng nên mạnh lòng không biết bạc đầu.
Khổ càng nên kiên tâm đừng mất chí khí mây xanh)

Cuối bài có 8 câu thơ tuyệt diệu, đặc biệt 4 câu cuối:


Nhàn vân đàm ảnh nhật du du
Vật hoán tinh di không độ thu
Các trung đế sử kim hà tại
Hạm ngoại trường giang không tự lưu

(Ðầm chiếu mây bay trời lửng lơ
Sao dời vật đổi mấy thu rồi
Con vua trong gác nào đâu nhỉ
Dòng nước ngoài hiên vẫn tự trôi

Bài phú “Ðằng Vương các” của Vương hay hơn tất cả. Từ đó danh tiếng càng vang dậy khắp nơi.

Nhưng thảm thay, người có tài như thế mà mạng yểu. Nhân đi thăm cha làm quan ở Giao Châu, Vương bị đắm thuyền chết ở giữa biển trong lúc 29 xuân xanh.

Do câu chuyện gió đưa thuyền Vương Bột đến Ðằng Vương các, tạo dịp cho Vương trổ tài danh nên cổ thi có câu: “Thời lai phong tống Ðằng Vương các” để chỉ sự may mắn của kẻ gặp thời. “Duyên Ðằng thuận nẻo gió đưa” chỉ Thúc Sinh may mắn làm rể danh gia họ Hoạn, một cha vợ quan Thượng thư bộ Lại, để rồi thương buôn với quan lại cấu kết nhau làm giàu hơn nữa. Tác giả “Truyện Kiều” chỉ mượn nửa ý của điển tích về sự may mắn gặp thời làm ăn giàu sang thêm có tiền có thế tất càng thêm có tiền của Thúc Sinh; chớ không phải áp dụng toàn bộ gặp thời để trổ tài danh của một thi hào trẻ tuổi như Vương Bột.

(Theo Ðiển tích Truyện Kiều, NXB Ðồng Tháp)

Đằng Vương các về đêm

Bình luận về bài viết này