Tham khảo và copy lại từ: http://thoaibut.blogspot.com
Trước hết nói về Vương Hi Chi 王羲之 (http://vi.wikipedia.org).
Vương Hi Chi người Lang Tà quận, thuộc Kiều tính Sĩ tộc Lang Tà Vương thị, cùng quê với Gia Cát Lượng. Sau di cư tới Sơn Âm.
Vương Hi Chi sinh ra trong gia đình có truyền thống thư pháp. Cha ông là Vương Khoáng, bác ông là Vương Đạo, Vương Dực đều làm quan cao trong triều đình và giỏi thư pháp.
Vương Hi Chi sinh ra cuối thời Tây Tấn. Ông lớn lên thời loạn Ngũ Hồ thập lục quốc, gia đình chuyển xuống Giang Nam và làm quan nhà Đông Tấn.
Năm 323, bác họ Vương Hi Chi là Vương Đôn nổi loạn chống triều đình nên gia đình ông bị liên lụy và bị bắt giam. Sau này loạn Vương Đôn chấm dứt, gia đình ông được tha tội nhưng vụ việc tác động lớn đến tâm lý ông khiến ông không tha thiết với quan trường.
Năm 326, Vương Hi Chi bắt đầu làm quan, trải qua các chức vụ: Mật thư lang, Tham quân, Trưởng sử, Thứ sử Giang châu, Ninh viễn tướng quân, Hộ quân tướng quân, Hữu quân tướng quân (vì vậy ông còn được gọi là Vương Hữu quân), Nội sử Cối Kê. Do không nhiều chí tiến thủ để thăng tiến, ông từng được tiến cử làm chức Thị trung – một chức vụ gần vua – nhưng Vương Hi Chi đã từ chối. Vì không thích ganh đua trên quan trường, sau khi làm Thứ sử Giang châu 1 năm, ông xin từ chức để chuyên tâm nghiên cứu thư pháp.
Trên lĩnh vực chính trị và quân sự thời loạn, Vương Hi Chi không có đóng góp lớn nhưng ông được người đời và hậu thế biết tới là một nhà thư pháp nổi danh bậc nhất Trung Quốc và được mệnh danh là Thư thánh.
Vương Hi Chi mất năm 361 thời Tấn Mục Đế, thọ 59 tuổi. Ông được triều đình truy tặng là Kim tử quang lộc đại phu, nhưng con cháu ông làm theo di chúc của ông đã kiên quyết từ chối, không nhận.
Tác phẩm:
- Đề Vệ phu nhân bút trận đồ họa
- Bút thế luận
- Dụng bút tặc
Ngoài những tác phẩm trên thì tác phẩm nổi tiếng nhất mà ông để lại là Lan Đình tập tự. Đây là tác phẩm thể hiện tài năng của ông. Mùa hè năm 355, ông cùng một số nhà văn, nhà thơ tụ tập ở núi Cối Kê tại Lan Đình tránh nắng, cùng nhau uống rượu và làm thơ. Khi đó Vương Hi Chi cao hứng, lấy bút lông chuột viết lên giấy lụa, đó chính là tác phẩm Lan Đình.
Lan Đình tập tự được người đời ví như mặt trời, Mặt Trăng giữa bầu trời, được mệnh danh là “Thiên hạ đệ nhất hành thư”, đến ngàn năm sau hậu thế vẫn thán phục.
Tương truyền Đường Thái Tông vì quá mê cuốn sách này, cho người đi khắp nơi truy tìm bản gốc. Cuối cùng tìm ra nhà sư Biện Tài là chủ nhân. Dù rất nhiều lần thuyết phục, thậm chí doạ nạt Biện Tài, vua Đường đành để Biện Tài mang sách về. Không cam chịu, Thái Tông sai một mưu sĩ là Tiêu Dực cải trang thành thư sinh đến kết bạn với Biện Tài. Khi đã thân quen, nhân một hôm Biện Tài đi vắng, Tiêu Dực bèn lấy trộm Lan Đình tập tự mang về cho vua Đường. Đường Thái Tông quý sách, khi chết không chôn theo mà sai để lại làm báu vật cho hậu thế.(Bản gốc hiện nay không còn nữa)
Thanh Cao Tông cũng rất ngưỡng mộ Lan Đình tập tự. Hai tác phẩm thư pháp của Vương Hi Chi là Khoái tuyết tinh thiếp và Trung thu thiếp cùng với Bá viễn thiếp của Vương Tuân được vua Càn Long xếp vào “Tam hy mặc bảo” (ba vật quý hiếm) và xây dựng Tam hy đường để cất giữ.
Lan Đình Tập Tự
Đọc Truyện Kiều đến đoạn nàng Kiều bị Hoạn Thư hành hạ trước mặt Thúc Sinh để “xả ghen”, chắc ai cũng cảm thấy xót xa. Song đến chỗ cùng Thúc Sinh xem Kiều chép kinh, Hoạn Thư phải thán phục thốt lên thành lời:
Khen rằng bút pháp đã tinh
So vào với Thiếp Lan Đình nào thua
thì chắc mọi người cũng có phần hả dạ.
(copy lại của http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn)
永和九年,歲在癸丑,暮春之初,會于會稽山 陰之蘭亭,脩禊事也。群賢畢至,少長咸集。
Vĩnh Hoà cửu niên, tuế tại Quý Sửu, mộ xuân chi sơ, hội ư Cối Kê Sơn Âm chi Lan Ðình, tu hễ sự dã. Quần hiền tất chí, thiếu trưởng hàm tập.
Năm thứ chín niên hiệu Vĩnh Hoà [5] nhằm năm Quí Sửu, đầu tháng ba[6], hội ở Lan Đình tại huyện Sơn Âm, quận Cối Kê[7] để cử hành lễ tu hễ[8]. Quần hiền tới đủ, già trẻ đều họp.
此地有崇山峻嶺,茂林修竹;
Thử địa hữu sùng sơn tuấn lĩnh, mậu lâm tu trúc;
Nơi đó có núi cao, đỉnh lớn, rừng rậm, trúc dài,
又有清流激湍,映帶左右。
Hựu hữu thanh lưu kích thoan, ánh đái tả hữu.
lại có dòng trong chảy xiết, chiếu quanh hai bên,
引以為流觴曲 水,列坐其次;
Dẫn dĩ vi lưu thương khúc thuỷ, liệt toạ kì thứ.
dẫn nước uốn khúc là chỗ thả chén[9]. Mọi người ngồi theo thứ tự.
雖無絲竹管絃之盛,
Tuy vô ti trúc quản huyền chi thịnh,
Tuy không có tiếng tơ, tiếng trúc, tiếng quản, tiếng huyền [10] cho vui tai,
一觴一詠,亦足以暢敘幽情。
nhất thương nhất vịnh, diệc túc dĩ sướng tự u tình.
nhưng uống một hớp rượu, ngâm một câu thơ, cũng đủ sướng u tình[11]
是日也,天朗氣清,惠風和暢;
Thị nhật dã, thiên lãng khí thanh, huệ phong hoà sướng;
Hôm đó khí trời trong sáng, gió nhẹ lâng lâng,
仰觀宇宙之大,俯察品類之盛;
Ngưỡng quan vũ trụ chi đại, phủ sát phẩm loại chi thịnh;
ngẩng nhìn vũ trụ mênh mông, cúi xem vạn vật muôn vẻ,
所以游目騁懷,足以極視聽之娛,信可樂也。
Sở dĩ du mục sính hoài, túc dĩ cực thị thính chi ngu, tín khả lạc dã.
phòng tầm mắt, mở cõi lòng, đủ để hưởng hết cái thú của tai mắt, thực là vui vậy.
夫人之相與,俯仰一世,
Phù nhân chi tương dữ, phủ ngưỡng nhất thế,
Người ta cùng cúi ngửa trong đời[12],
或取諸懷抱,晤言一室之內;
hoặc thủ chư hoài bão, ngộ ngôn nhất thất chi nội;
có người đem cái hoài bão của mình ra đàm đạo với bạn bè trong một nhà,
或因寄所託,放浪形骸之外。
Hoặc nhân kí sở thác, phóng lãng hình hài chi ngoại.
có kẻ gởi tấm lòng ở một sự tình gì mà phóng lãng ở ngoài hình hài;
雖趣舍萬殊,靜躁不同;
Tuy thú xá vạn thù, tĩnh táo bất đồng;
hai hạng người đó tuy thủ xả tĩnh động[13] khác nhau,
當其欣扵所遇,暫得於己,快然自足,不知 老之將至。及其所之既倦,情隨事遷,感慨係之矣。
Đương kì hân ư sở ngộ, tạm đắc ư kỉ, khoái nhiên tự túc, bất tri lão chi tương chí. Cập kì sở chi kí quyện, tình tuỳ sự thiên, cảm khái hệ chi hĩ.
nhưng đương lúc cái già sắp tới, kịp đến khi mõi mệt, tình ý theo thế sự mà thay đổi, thì đều sinh ra cảm khái.
向之所欣,俛仰之間,
Hướng chi sở hân, phủ ngưỡng chi gian,
Cái mà trước kia vui trong lúc cuối ngửa,
已為陳跡,猶不能不以之興懷;
dĩ vi trần tích, do bất năng bất dĩ chi hưng hoài;
nay đã thành ra vết cũ, mà nhớ lại lòng không thể không hoài cảm.
況脩短隨化,終期於盡。
Huống tu đoản tuỳ hoá, chung kì ư tận.
Huống đời người dài ngắn do trời, nhưng đều qui về cõi chết cả.
古人云:死生亦大矣。豈不 痛哉!
Cổ nhân vân: “Tử sinh diệc đại hĩ”, khởi bất thống tai!
Cổ nhân nói: “Tử sinh đều là việc lớn”, há chẳng đau lòng thay!
每覽昔人興感之由,若合一契;
Mỗi lãm tích nhân hưng cảm chi do, nhược hợp nhất khế;
Mỗi khi xét nguyên do người đời xưa cảm khái như in với người đời nay[14],
未嘗不臨文嗟悼,不能喻之扵 懷。
Vị thường bất lâm văn ta điệu, bất năng dụ chi ư hoài.
không lần nào đọc văn người trước mà không than thở buồn rầu, trong lòng không hiểu tại sao.
固知一死生為虛誕,齊彭殤為妄作。
Cố tri nhất tử sinh vi hư đản, tề Bành thương vi vọng tác;
Cho nên bảo sinh tử cũng như nhau là lời hư ngoa[15]; bảo Bành Tổ không hơn gì kẻ chết yểu[16] là lời nói láo.
後之視今,亦由今之視昔,悲夫!
Hậu chi thị kim, diệc do kim chi thị tích, bi phù!
Người đời sau nhìn lại đời bây giờ cũng như người bây giờ nhìn lại đời xưa[17], buồn thay!
故列敘時人,錄其所 述,
Cố liệt tự thi nhân, lục kỳ sở thuật,
Vì vậy tôi chép lại chuyện người trong tiệc, sao lục thơ họ làm,
雖世殊事異,所以興懷,其致一也。
tuy thế thù sự dị, sở dĩ hứng hoài, kỳ trí nhất dã.
tuy đời và việc đều khác nhưng lẽ sở dĩ cảm khái thì là một[18].
後之覽者,亦將有感於斯文。
Hậu chi giám dã, diệc tương hữu hoài ư tư văn.
Người đời sau đọc bài này chắc không khỏi bùi ngùi[19].
Hình chụp bài tự trên không phải do Vương Hi Chi viết. Hình chụp Bài Lan Đình tự đó do Phùng Thừa Tố thời Đường mô phỏng (giống như chép tranh bây giờ).
Chú thích:
[5] Vĩnh Hoà là niên hiệu Tấn Mục Đế (345-361).
[6] Nguyên văn: mộ xuân là cuối mùa xuân.
[7] Sơn Âm, Cối Kê đều ở Chiết Giang.
[8] Lễ tu hễ là một cuộc lễ vào ngày tị trong thượng tuần tháng ba; người ta ra bờ sông tắm rửa, vẩy nước để trừ ma và những điều bất tường.
[9] Trong khi làm lễ đó, người ta ngồi rải rác hai bên bờ sông, thả một chén rượu ở trên dòng nước, chén trôi xuôi xuống, tấp vào chỗ nào thì người ta lại vớt lên, uống rượu trong chén (vì vậy cho nên gọi là lưu thương: lưu là trôi, thương là chén rượu); có lẽ không muốn cho chén trôi xa, người ta lựa chỗ nào dòng nước uốn khúc mà thả; nếu không thì phải dẫn nước sao cho nó chảy uốn khúc (như vậy gọi là khúc thuỷ: khúc là uốn cong, thuỷ là nước).
[10] Quản là ống sáo, tiếng trúc tức là tiếng sáo. Huyền là dây đàn, cái đàn; tiếng tơ tức tiếng đàn.
[11] Nghĩa là lòng hả hê, vui vẻ, không buồn rầu nữa.
[12] Ý nói: sống ở trên đời.
[13] Thủ là lấy, xả là bỏ. Thủ và động trỏ hạng người xử thế, xả và tĩnh trỏ hạng người xuất thế. Hai hạng người đó, tác giả đã nói trong hàng trên: hạng đem hoài bão ra đàm đạo với bạn bè và hạng phóng lãng ở ngoài hình hài.
[14] Nguyên văn: nhược hợp nhất khế, nghĩa là như hai phần một tờ khế ước hợp với nhau. Cổ nhân làm khế ước, có hai phần: bên phải, bên trái; mỗi người giữ một bên, khi ráp hai phần lại thì hợp với nhau. Câu này ý nói cổ nhân cũng buồn về sinh tử như ta.
[15] Coi sinh tử như nhau là thuyết của Trang Tử, cũng là thuyết của nhà Phật.
[16] Ông Bành Tổ thọ tám trăm tuổi; Thương là đứa trẻ chết non. Coi thọ yểu cũng như nhau cũng là thuyết của Trang Tử. Ý nói: người thời nào cũng buồn về sinh tử mà lại bảo sinh tử là một, thọ yểu như nhau thì quả là không hợp nhân tình.
[17] Ý nói: đời sau có nhìn lại đời bây giờ thì cũng không thấy được người bây giờ, cũng như bây giờ nhìn lại thời trước, không thấy cổ nhân nữa.
[18] Câu này ứng với câu: “Mỗi lãm tích nhân hưng cảm chi do, nhược hợp nhất khế” ở trên.
[19] Câu này ứng với câu: “vị thường bất lâm văn ta điệu” ở trên.